Tóm tắt
Hiến pháp 1946 gồm lời nói đầu, 7 chương với 70 điều Trong đó
Hiến pháp ghi nhận thành quả của Cách mạng tháng Tám “giành lại chủ quyền cho đất
nước tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa”. Lời nói đầu cũng nêu
rõ: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo đảm lãnh thổ, giành độc
lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”.Hiến pháp năm 1946
ra đời trong bối cảnh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ phải đương đầu với
muôn vàn khó khăn, đặc biệt trước nguy cơ của cuộc chiến bảo vệ độc lập dân tộc
trước sự xâm lược của thực dân Pháp đang đến gần. Để củng cố tính hợp hiến và
tăng cường sự lãnh đạo của Nhà nước Dân chủ Cộng hòa trước những yêu cầu cấp
bách của lịch sử, ngày 9/11/1946, bản
Hiến pháp đầu tiên của nước ta - Hiến pháp 1946 đã được thông qua tại kỳ họp thứ
hai Quốc hội khóa I. Trong thời gian tồn tại, Hiến pháp 1946 đã đóng vai trò vô
cùng quan trọng đối với việc xây dựng và củng cố chính quyền trong công cuộc bảo
vệ tổ quốc và kiến thiết đất nước.
1. Đặt vấn đề
Ngày
9/11/1946, Quốc hội khóa I tại kỳ họp thứ hai đã thông qua bản Hiến pháp đầu
tiên của nước ta - Hiến pháp 1946. Đây là bản Hiến pháp được soạn thảo và thông
qua trong một thời gian rất ngắn sau khi nước nhà giành được độc lập năm 1945,
trong điều kiện còn muôn vàn khó khăn như thù trong, giặc ngoài và nhất là nguy
cơ đang đến gần về một cuộc chiến không thể tránh khỏi với thực dân Pháp để bảo
vệ nền độc lập dân tộc. Mặc dù vậy, Hiến pháp 1946 vẫn hội tụ đầy đủ các yếu tố
của một bản Hiến pháp tiêu biểu không kém bất cứ bản hiến pháp nào trên thế giới.
Có thể nói Hiến pháp 1946 là một văn bản có
sứ mệnh xác lập chế độ mới thay thế chế độ cũ. Hiến pháp 1946 vừa là
văn bản pháp lý của Nhà nước, vừa là bản khế ước thể hiện ý chí, khát vọng
chung của nhân dân về bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo toàn lãnh thổ,
đoàn kết toàn dân, bảo đảm các quyền tự do dân chủ và xây dựng chính quyền nhân
dân mạnh mẽ, sáng suốt. Đây cũng chính là vị trí, vai
trò của Hiến pháp 1946 trong đời sống xã hội nói chung, trong hoạt động quản lý
Nhà nước nói riêng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đáp ứng nhiệm vụ trong
tình hình lịch sử cụ thể.
2. Vai trò của Hiến pháp
1946
2.1. Hiến pháp năm 1946 xác lập tính hợp
pháp của Nhà nước
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở
khu vực Đông Nam Á. Đó là một nhà nước kiểu mới, đại diện cho quốc gia, dân tộc,
khởi đầu cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Để xây dựng
nhà nước độc lập, tự chủ, dân chủ cộng hòa, ngay sau khi giành được chính quyền,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều chỉ thị, sắc lệnh quan trọng.
Đặc biệt, ngày 9/11/1946, Quốc hội khóa I thông qua bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến
pháp 1946 - đã khẳng định những tư tưởng cơ bản của nhà nước mới. Hiến
pháp năm 1946 đã khẳng định thành quả thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945,
xác lập và khẳng định tính hợp pháp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
phát triển cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, phục vụ cuộc kháng chiến chống
Pháp.
Ngày 27/10/1946, Pháp đã ban hành Hiến
pháp chế độ Cộng hòa IV, trong Chương VIII từ Điều 60 đến Điều 82 khẳng định “duy trì thuộc địa trước đây như một Liên hiệp
Pháp”. Tình hình đó đã đặt Việt Nam đứng trước hai sự lựa chọn: hoặc là trở
thành một thành viên của Liên hiệp Pháp như Hiến pháp chế độ Cộng hòa IV của
Pháp quy định, hoặc là khôi phục lại nền độc lập hoàn toàn như đã ghi trong Hiến
pháp năm 1946 của Việt Nam, “cho nên Hiến
pháp năm 1946 của Việt Nam phản ánh tương quan lực lượng giữa Việt Nam và Pháp
từ sau Tuyên ngôn độc lập”. Sự ra đời của Hiến pháp 1946 có ý nghĩa
xác lập tính hợp pháp, sự vững vàng của một Nhà nước về mặt đối nội và đối ngoại.
Đây là văn bản có tính cơ sở pháp lý để chuyển chính quyền đã giành được bằng
hành động cách mạng thực tiễn của nhân dân ta thành chính quyền hợp pháp, vừa
làm thất bại âm mưu của thù trong và giặc ngoài, vừa củng cố được chính quyền
nhân dân.
Đánh giá về Hiến pháp,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hiến
pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với
thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do,…”. Như vậy, ngay sau khi Nhà
nước được thành lập, nước ta đã kịp thời xây dựng một hệ thống quy định những
nguyên tắc chính trị căn bản và
thiết lập kiến trúc, thủ tục, quyền hạn và trách nhiệm của một chính quyền. Hiến pháp góp phần
xác lập tính hợp pháp của Nhà nước Việt Nam trên bình diện quốc gia và quốc tế.
Đối với đất nước, trong những ngày đầu xây dựng bộ máy chính quyền và hệ thống
pháp luật mới, đạo luật cơ bản này có một ý nghĩa hết sức lớn lao.
2.2. Hiến pháp 1946
khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam
Nội dung cơ bản của Hiến pháp là vấn đề
tổ chức quyền lực nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước và ghi nhận các quyền tự do
dân chủ của công dân. Nhận thấy tầm quan trọng trong việc khẳng định quyền tự
do, dân chủ, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng
hòa (9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách mà Chính phủ cần
phải thực hiện. Một trong sáu nhiệm vụ đó là xây dựng Hiến pháp bởi vì “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị,
rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến
pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một
Hiến pháp dân chủ”.
Hiến pháp 1946 đã quy định về thể chế
dân chủ cộng hoà, một chế độ trong đó quyền lực thuộc về nhân dân, đảm bảo quyền
bình đẳng, dân chủ tự do cho mọi công dân. Hiến pháp 1946 là công cụ pháp luật
cơ bản để xây dựng chế độ chính trị dân chủ cộng hòa, thể hiện tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính quyền của dân. Chương I (từ Điều 1 đến Điều 3) quy định về chính
thể, theo đó Việt Nam là một nước dân chủ
cộng hòa, thống nhất, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, quốc kỳ lả cờ đỏ sao
vàng, quốc ca là bài Tiến quân ca, thủ đô đặt ở Hà Nội, khẳng định chủ quyền
nhân dân và chính quyền dân chủ với nguyên tắc: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa” và “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”. Ngoài ra, Hiến pháp còn dành toàn bộ Chương II (từ Điều 4 đến Điều
21) quy định về quyền và nghĩa vụ công dân, ghi nhận quyền bình đẳng trên tất cả
các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hôi; bình đẳng giữa nam vả nữ;
bình đẳng trước pháp luật; quyền được tham gia chính quyền và công việc kiến quốc
tùy theo tài đức; quyền tự do ngôn luận, hội họp, cư trú, đi lại, tín ngưỡng;
quyền bầu cử, bãi miễn, phúc quyết; quyền đảm bảo thân thể, nhà ở, thư tín...;
nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Tính chất ưu việt của
chế độ mới không chỉ ghi trong các sắc lệnh và Hiến pháp mà sớm được thực thi
trong thực tế ngay trong năm đầu của chế độ dân chủ cộng hoà trên tất cả các mặt
chính trị, kinh tế, tài chính, văn hoá, giáo dục... Mọi hoạt động của Chính phủ
đều nhằm vào lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, tự do, nhằm mang lại quyền
lợi thực tế cho nhân dân ngay trong điều kiện đất nước đang gặp muôn vàn khó
khăn. Quyền dân tộc gắn liền với quyền dân chủ, tự do, công bằng xã hội là một
động lực lớn của sự phát triển đất nước, có giá trị trường tồn.
2.3. Hiến pháp 1946 đặt ra những nguyên
tắc cho việc tổ chức bộ máy Nhà nước dân chủ cộng hòa
Trong Hiến pháp 1946, hệ thống bộ máy
nhà nước dân chủ cộng hòa Việt Nam được quy định cụ thể ở Chương III (từ Điều
22 đến Điều 42) quy định về Nghị viện nhân dân (Quốc hội), theo đó, cơ quan lập
pháp tối cao là Nghị viện nhân dân gồm các Nghị viện được nhân dân trực tiếp bầu
ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín. Nghị viện nhân dân chỉ
gồm một viên, là “cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Công
hòa”: quyết định những vấn đề chung quan trọng nhất của đất nước, đặt ra luật
pháp biểu quyết ngân sách, bầu và giám sát hoạt động của Chính phủ…Chương này
cũng quy anh cơ cấu, hoạt đông của Nghị viện nhân dân; quyền và nghĩa vụ của
các nghị viên.Chương IV (từ Điều 43 đến Điều 56) quy định về Chính phủ, theo
đó, “Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất” của quốc gia, gồm Chủ tịch nước,
Thủ tướng, các bộ trưởng và thứ trưởng. Chính phủ được lập ra và chịu trách nhiệm
trước Nghị viện. Chương này còn quy định chi tiết cơ cấu, thẩm quyền và phương
thức hoạt động của chính phủ, Chương V (từ Điều 57 đến Điều 62) quy định về hội
đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và phải chịu trách
nhiệm trước nhân dân. Ủy ban hành chính là cơ quan quản lý nhà nước ở địa
phương, thực hiện những quyết định của hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước
cấp trên. Chương này còn quy định về cơ cấu đơn vị hành chính lãnh thổ Việt Nam,
Chương VI (từ Điều 63 đến Điều 69) quy định về cơ quan tư pháp, theo đó, tòa án
được chia thành 4 cấp, có trách nhiệm xét xử các vụ án hình sự và dân sự. Khi
xét xử thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật. Xét xử các vụ án hình sự, phải có phụ
thẩm nhân dân tham gia. Thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm. Bị cáo được quyền tự
bào chữa, mượn luật sư, dùng tiếng nói riêng và không bị ngược đãi.
Hiến pháp năm 1946 quy định chính thể của
Nhà nước ta là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo hình thức này, Nghị viện nhân
dân (Quốc hội) là cơ quan Nhà nước cao nhất, còn Chính phủ là cơ quan hành
chính cao nhất của toàn quốc do Chủ tịch nước là người được chọn trong Nghị viện
nhân dân đứng đầu. Chế định về vai trò của Chủ tịch
nước đồng thời là người trực tiếp điều hành Chính phủ là một đặc trưng tiêu
biểu về tổ chức nhà nước Việt Nam được thực thi ngay trong năm đầu của chế độ
cộng hoà và tiếp tục những năm kháng chiến về sau.
Để có thể lãnh đạo và điều hành đất nước trong tình thế “thù
trong, giặc ngoài” thì
cần phải có một Chính phủ đủ
mạnh, có thực quyền. Hiến pháp 1946 đã
trao cho Chủ tịch nước rất
nhiều quyền hạn. Với uy tín của Hồ Chí Minh, Người đã được Nghị viện tín nhiệm
bầu làm Chủ tịch nước. Trở thành người lãnh đạo hợp pháp với những quyền
hạn được trao theo quy định của Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo
cách mạng Việt Nam thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ dân tộc, dân chủ trong các
giai đoạn lịch sử sau này.
Trong tình hình đất nước chuẩn bị bước
vào cuộc chiến toàn quốc chống thực dân Pháp, Quốc hội đã ra quyết định trong
điều kiện chưa thi hành được Hiến pháp thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên
tắc đã quy định trong Hiến pháp để ban hành các sắc luật. Ngày 19/12/1946, cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến tranh mà Hiến pháp 1946 không
được chính thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân
không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh cùng với Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội
dung của Hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.
Hiến pháp 1946 được xây dựng phù hợp với
tình hình đất nước lúc bấy giờ. Nội dung Hiến pháp trước hết nhằm thể chế hóa
đường lối, chính sách của Đảng. Mặc dù trong Hiến pháp 1946 chưa có điều khoản
nào nói đến sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương nhưng toàn bộ nội dung của
nó đã thể hiện đường lối, chủ trương, sách lược của Đảng trong thời kỳ lịch sử
này. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và đối với xã hội trong
giai đoạn này và các giai đoạn lịch sử sau này là một tất yếu lịch sử khách
quan. Điều này không phải ngẫu nhiên, đó là thành quả đấu tranh cách mạng đầy
hy sinh, gian khổ của toàn Đảng, toàn dân ta.
Xây dựng chế định về vai trò của các tổ chức trong hệ
thống chính trị của nền dân chủ cộng hoà Việt Nam được ghi trong Hiến pháp 1946
là một nét rất đặc sắc của thể chế chính trị dân tộc dân chủ Việt Nam. Sự kết
hợp chặt chẽ và phát huy đúng vai trò, quyền hạn của từng tổ chức trong tổ chức
bộ máy Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có ý nghĩa quyết định đối với việc
phát huy sức mạnh của dân tộc, của chế độ mới để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc.
3. Kết luận
Hiến pháp 1946 là văn kiện mang tính nền
tảng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Mục tiêu chiến lược của
Hiến pháp là hoàn thành độc lập dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ nhân dân,
chuẩn bị tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 1946 là bản hiến
pháp đầu tiên của nước ta, là một bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém một
bản hiến pháp nào trên thế giới. Nó là bản hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương
diện.
Hiến pháp 1946 được đánh giá là văn bản
chính trị mang tính pháp lý đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, là bản Hiến pháp
dân chủ và tiến bộ nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Nó ghi nhận thành quả vĩ đại
của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và thống
nhất lãnh thổ. Hiến pháp 1946 đã đề ra những nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước và
nhân dân ta trong giai đoạn trước mắt, chỉ rõ những đường lối thực hiện nhiệm vụ
ấy. Đồng thời, nó đặt nền móng cho một bộ máy nhà nước kiểu mới - nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Hiến pháp 1946 còn công nhận, đảm bảo quyền dân chủ thiêng
liêng của công dân, phù hợp với tình hình, đặc điểm cách mạng khẳng định tính hợp
pháp của chính quyền giành được bằng sức mạnh đấu tranh của quần chúng sau thắng
lợi của cách mạng tháng Tám, đồng thời xác lập và khẳng định về thể chế chính
trị, các nguyên tắc căn bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Những giá trị của bản Hiến pháp 1946 đã được kế thừa và
phát triển trong các Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến
pháp 2013.
Th.s Hoàng Thị Chung
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. AIKYO T. INAKO (1993), Nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 145 - 146.
2.Vũ Hồng Anh
(2003), “Vai
trò của hiến pháp đối với việc phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân”, Tạp chí Luật học, số
3, tr.3-9.
3. Trần Mộng Lang (sưu tầm và giới thiệu)
(2002), Hiến pháp Việt Nam: từ năm 1946 đến năm 2001,
Nxb. Tp. HCM.
4. Nguyễn Tư Long (2010), “Vị trí,
vai trò của hiến pháp và các đạo luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, số 21(182), tr. 19-25.
5.Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, Tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
6.Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
7. Bùi Ngọc Sơn (2009), “Chủ nghĩa hợp
hiến ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 11, tr. 12 - 24.
8. Phan Đăng Thanh - Trương Thị Hòa
(2013), Lược sử lập hiến Việt Nam,
Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
9. Bùi Anh Thủy (2012), “Vai trò
của hiến pháp và việc tổng kết thực thi hiến pháp của nước ta”, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số 6(56), tr.
43-48.
10.
Văn phòng Quốc hội (1998), Hiến pháp
năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.