Trong toàn bộ lịch sử tư
tưởng nhân loại, không một tư tưởng nào, học thuyết nào về lịch sử có thể sánh
kịp với chủ nghĩa Mác về phương diện khoa học và cách
mạng. Bằng việc phát hiện ra những quy luật khách quan của sự vận động,
biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất và lịch sử loài người, lần đầu tiên
trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân
loại tiến bộ toàn thế giới những con
đường và biện pháp hiện thực để tự giải phóng khỏi
ách áp bức, bóc lột, bất công để xây dựng một chế độ xã hội mới hướng đến sự
giải phóng triệt để và phát triển toàn diện con người.
Nói một cách khái quát,
chủ nghĩa Mác
là học thuyết về sự giải phóng và phát triển. Chủ nghĩa ấy hướng đến sự giải
phóng triệt để con người khỏi mọi sự nô dịch, áp bức bóc lột, sự hạn chế trong
các quan hệ xã hội và hướng đến sự giải phóng triệt để con người. Chủ nghĩa ấy
thực hiện được điều đó bởi lẽ nó bao hàm các học thuyết khoa học, được xây dựng
trên cơ sở kế thừa các thành tựu nhận thức khoa học của lịch sử tư tưởng nhân
loại; nó chỉ ra được những quy luật chi phối toàn bộ sự vận động và phát triển
của thế giới vật chất nói chung và lịch sử xã hội nói riêng, chấm dứt mọi sai lầm của
chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giai thích các
hiện tượng xã hội và lịch sử. Chủ nghĩa đó cũng đóng góp vô cùng quý giá vào sự
phát triển khoa học triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa cộng sản khoa học
và nhiều khoa học khác, trở thành nền tảng lý luận có ý nghĩa phương pháp luận
to lớn trong việc phát triển tư duy và nhận thức của nhân loại. Lần đầu tiên chủ nghĩa ấy cũng cấp phương pháp luận khoa học trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nó góp phần thay đổi căn bản tư duy
của nhân loại trong việc thay đổi, cải tạo thế giới, hướng đến việc xây dựng một
thế giới của con người, cho con người, vì con người. Ở đó, sự phát triển của mỗi
người là tiền đề cho sự phát triển và tự do của tất cả mọi người. Vì vậy, chủ
nghĩa ấy, đồng thời bao hàm tính cách mạng. Tính khoa học và cách mạng đã làm
nên những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác, qua đó tạo cho chủ nghĩa ấy sức sống
mạnh mẽ trong thời đại của chúng ta. Có thể khái quát những giá trị bền vững của
chủ nghĩa Mác ở những nội dung sau:
Thứ nhất, phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật
của triết học Mác là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa trong lịch sử phát triển nhận
thức của nhân loại về sự vận động, biến đổi của thế giới vật chất. Như Ph.Ăngghen đã định nghĩa,
phép biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên,
xã hội và tư duy. Phép biện chứng trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính
chất biện chứng của thế giới thông qua những nguyên lý, những quy luật và những
phạm trù chung nhất của thế giới. Vì vậy, phép biện chứng duy vật vừa là lý luận
duy vật biện chứng, vừa là lý luận nhận thức, và là lôgic học của chủ nghĩa
Mác. Phép biện chứng duy vật là lý thuyết triết học và đồng thời cũng là phương
pháp phổ biến của tư duy, của sự nhận thức khoa học, “nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân
những công cụ nhận thức vĩ đại"[1],
đồng thời là phương pháp để cải tạo xã hội.
Thông qua
phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, C.Mác đã khẳng định: "triết
học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý…, triết học không đòi hỏi tin tưởng vào
các kết luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm những điều hoài nghi"[2]. Theo
đó, triết học duy vật biện chứng của C.Mác luôn nhìn thẳng vào sự thật, hướng
về thực tiễn để hướng dẫn, giải quyết những vấn đề cơ bản và bức thiết do thực
tiễn, do hiện thực cuộc sống đặt ra. Chính vì thế mà triết học duy vật biện
chứng của C.Mác có khả năng tự đổi mới và phát triển, trở thành kim chỉ nam cho
hành động, mở đường và hướng dẫn nhân loại tiến bộ tiếp tục tìm kiếm và nhận
thức chân lý, chứ không đi tới chân lý tuyệt đính, cuối cùng.
Thông qua phương pháp luận của phép biện chứng
duy vật, lần đầu tiên Mác đã gắn triết học với đời sống hiện thực. Triết học không đứng
ngoài cuộc sống, mà nó đã góp phần vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân
lao động, làm cho cuộc đấu tranh giai cấp của nhân dân lao động “không còn mang
tính chất biệt phái, ngẫu nhiên” nữa mà là hành động có tổ chức nhằm bảo vệ lợi
ích của các giai cấp, các tầng lớp đông đảo người trong xã hội, điều mà các lý
luận khác không làm được.
C.Mác đã từng phê phán những trường phái triết
học xa rời thực tiễn đời sống xã hội. Ngay từ khi còn là biên tập viên của Báo Sông Ranh C.Mác đã chỉ ra rằng, triết
học cũng phải theo đuổi những mục đích thực tiễn hiểu theo ý nghĩa cao nhất của
chữ đó như bất cứ hoạt động lao động nào khác của con người. C.Mác nói, các nhà
triết học không mọc như nấm từ dưới đất lên, họ là sản phẩm của thời đại họ, của
nhân dân họ, những nhựa sống tinh tế nhất, quý giá nhất và chưa từng có của
nhân dân được chung đúc lại trong những tư tưởng triết học. Cũng như cái tinh
thần xây dựng nên đường sắt với bàn tay của người công nhân, xây dựng nên những
hệ thống triết học trong đầu óc của nhà triết học. Triết học không lơ lửng ở
đâu ngoài thế giới cũng như bộ óc không nằm ngoài con người. C.Mác phản đối
quan điểm cho rằng triết học chỉ quan sát hiện thực, và không có quan hệ gì với
hoạt động thực tiễn, với sự biến đổi chế độ xã hội. Tháng 9 năm 1843, trong thư
gửi A.Rugiơ, C.Mác cũng cho rằng nhiệm vụ của triết học không phải là xây dựng
lên một hệ thống, thích dụng “đối với mọi
thời đại sau này” mà là phê phán thẳng tay mọi cái đang tồn tại. Trong cuộc
đấu tranh chống lại các hệ tư tưởng phản động, C.Mác viết, triết học cũng cần gắn
liền với cuộc đấu tranh hiện thực. Đó là cuộc đấu tranh vì lợi ích của nhân dân
lao động, trước hết là giai cấp công nhân. Trong Lời nói đầu Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen,
C.Mác đã trình bày một tư tưởng rất quan trọng về mối liên hệ giữa lý luận cách
mạng và thực tiễn cách mạng. Ông cho rằng, lý luận cách mạng phản ánh yêu cầu,
địa vị lịch sử và hoạt động đấu tranh của giai cấp cách mạng. Nhưng chỉ bằng lý
luận thì không thể xoá bỏ được áp bức, bóc lột, bất công, mà muốn giải phóng
toàn nhân loại thì phải gắn lý luận với
con đường đấu tranh cách mạng. C.Mác
cho rằng, lý luận không chỉ có nhiệm vụ nhận thức ra yêu cầu, địa vị, hoạt động
của quần chúng, mà còn phải có khả năng thâm nhập vào quần chúng và trở thành lực
lượng vật chất. Tư tưởng này được thể hiện tập trung ở trong luận điểm:
"Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình,
giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình, và chỉ cần sấm
sét của tư tưởng đánh một cách triệt để vào cái mảnh đất nhân dân còn nguyên vẹn
ấy là việc giải phóng người Đức thành con người sẽ hoàn thành"."Đầu
não của sự giải phóng ấy là triết học, trái tim của
nó là giai cấp vô sản. Triết học không trở thành hiện thực nếu không xoá bỏ,
giai cấp vô sản; giai cấp vô sản không thể xoá bỏ được bản thân mình nếu không
làm cho triết học biến thành hiện thực"[3]. Tư
tưởng trên của C.Mác cũng được thể hiện rõ nét nhất trong tác phẩm Luận
cương về Phoiơbắc trước khi C.Mác viết tác phẩm Hệ tư tưởng Đức.
Trong luận đề thứ 11, C.Mác viết: “Các nhà triết học đã giải thích thế giới bằng
nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”[4]. Luận đề đó của
C.Mác không chỉ chỉ rõ vai trò của triết học đối với hiện thực mà còn nêu lên một
cách vắn tắt và sâu sắc thực chất cuộc cách mạng trong triết học nói chung và
phép biện chứng duy vật nói riêng do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện.
Thứ hai, quan niệm duy vật về lịch sử
Có thể nói, C.Mác là
người đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại tìm ra quy luật phát triển
của lịch sử loài người. Đúng như Ph.Ănghen đã nói, “Trên hành
tinh của chúng ta, Sáclơ Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu
cơ. Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của
lịch sử loài người”[5]. Chính
quan niệm duy vật về lịch sử này đã chấm dứt sự lộn xộn và tuỳ tiện vẫn thống
trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị.
C.Mác xuất phát từ
phương thức sản xuất để nghiên cứu sự vận động, biến đổi, phát triển và quy luật
của lịch sử. Ở đó, phương thức sản xuất được hiểu là sự vận động của lực lượng
sản xuất và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đó
còn là sự liên kết các lĩnh vực vào một thể thống nhất, tạo nên tính toàn vẹn
và tính cụ thể đặc trưng của một xã hội. C.Mác đã xem xét tính quy luật chung của
sự phát triển lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất và tính đặc thù của
chúng trong các xã hội cụ thể. Nội dung này được thể hiện tập trung trong học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Bằng phạm trù hình thái kinh tế - xã hội,
C.Mác đã thực hiện sự phân kỳ lịch sử như tính liên tục của sự thay thế nhau một
cách tất yếu, hợp quy luật các giai đoạn phát triển, tạo nên vòng khâu nối tiếp
nhau, giữa các nấc thang, các thời đại, cũng như sự kế thừa, chế ước lẫn nhau
giữa các dân tộc có trình độ phát triển khác nhau. Trong bức tranh sinh động của
tiến trình lịch sử - xã hội nổi lên những khuynh hướng chủ đạo, làm xương sống
cho sự biến đổi, sự thay thế cái cũ bằng nhân tố mới, đảm bảo quá trình vận động
đi lên của lịch sử. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã làm sáng
tỏ những dấu hiệu phổ biến cho các nấc thang phát triển của xã hội, cũng như những
nét đặc thù cho từng xã hội cụ thể. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội lần đầu
tiên cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho việc phân kỳ lịch
sử, giúp con người hiểu được lôgic khách quan của quá trình tiến hoá xã hội. Nó
vạch ra sự thống nhất của lịch sử trong cái muôn vẻ của các sự kiện ở các nước
khác nhau trong các thời kỳ khác nhau, chỉ ra những mối liên hệ để giải thích
chứ không chỉ mô tả các sự kiện lịch sử. V.I.Lênin đã đánh giá: “lúc đó, tư tưởng
ấy chỉ mới còn là giả thuyết, nhưng là một giả thuyết lần đầu tiên đã tạo ra khả
năng có được một thái độ hết sức khoa học đối với những vấn đề lịch sử và xã hội” [6]. C.Mác “đã vạch
ra con đường nghiên cứu lịch sử một cách khoa học, coi lịch sử là một quá trình
thống nhất và có quy luật, mặc dầu quá trình đó cực kỳ phức tạp và có nhiều mâu
thuẫn”[7]. V.I.Lênin khẳng định, C.Mác đã "có được một cơ sở vững
chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên"[8]. Tư
tưởng này "tự bản thân nó, cũng đã là một tư tưởng thiên tài rồi"[9]. Bằng
việc phát hiện ra những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, lần đầu
tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và
nhân loại tiến bộ toàn thế giới những con đường và biện
pháp hiện thực để tự giải
phóng khỏi ách áp bức về mặt xã hội và tạo ra những điều kiện, tiền
đề cho một cuộc sống thật sự mang tính người trong xã hội cộng sản.
Thứ ba, học thuyết giá trị thặng dư
Học thuyết giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến
vĩ đại của C.Mác. Theo đánh giá của V.I Lênin, học thuyết giá trị thặng dư
là "hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác" và học thuyết kinh tế
của C.Mác là “nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác’’. Nội dung chính của học thuyết phát biểu rằng sản xuất và chiếm hữu giá
trị thặng dư là hình thức đặc biệt trong chủ nghĩa tư bản về sản xuất và chiếm
hữu sản phẩm thặng dư, nghĩa là hình thức cao nhất của sự tha hóa con người đối
với hoạt động của mình, đối với sản phẩm từ hoạt động đó, đối với chính mình,
đối với người khác. Qua học thuyết giá
trị thặng dư C.Mác đã làm rõ cơ sở và quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản. Theo C.Mác, để đạt được mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư
bản đã mua sức lao động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất ra sản
phẩm, thu về giá trị thặng dư. Nhưng nhà tư bản bao giờ cũng chỉ trả một phần
giá trị sức lao động cho người công nhân thông qua hình thức tiền lương và bóc
lột giá trị thặng dư do người công nhân sáng tạo ra trong quá trình sản xuất.
Trong xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ
cơ bản, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan hệ sản xuất của xã hội đó. Giá
trị thặng dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng taọ ra ngoài
sức lao động bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ sản cơ bản nhất
đó. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân làm thuê sáng
tạo ra là nguồn gốc làm giàu của giai cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá trị
thặng dư là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Từ việc làm rõ phạm trù giá trị thặng dư - cơ sở của sự tồn tại và những
bất công trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đi đến kết luận khoa học
rằng, sự diệt vong của xã hội tư
sản và sự ra đời của chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa đều là tất yếu như nhau.
Và, trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc quá trình phát triển của các quan hệ
xã hội, C.Mác đã đi đến nhận thức đúng đắn về vai trò lịch sử vĩ đại của giai
cấp vô sản toàn thế giới với tư cách lực lượng có khả năng cải tạo tận gốc các
quan hệ xã hội, thủ tiêu tình trạng người bóc lột người và xây dựng chế độ xã
hội mới, tự giải phóng mình và qua đó, giải phóng nhân loại. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nhận định rằng, nền công nghiệp hiện đại đã sản sinh, nuôi dưỡng
một giai cấp vô sản với những đặc trưng cơ bản: không có tư liệu sản xuất, đối
lập với giai cấp tư sản, bị giai cấp tư sản bóc lột ngày càng nặng nề; có tinh
thần cách mạng, đoàn kết, có tính tổ chức kỷ luật cao. Bởi vậy, giai cấp vô sản
chứ không phải bất kỳ một giai cấp nào khác gánh trên vai mình sứ mệnh cao cả
là “người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản” để xây dựng một xã hội mới.
Xã hội mới mà giai cấp vô sản và nhân dân lao động
xây dựng là chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, là một xã hội hướng đến sự giải
phóng triệt để là phát triển toàn diện con người. Xã hội đó “thoát thai” từ xã
hội trước đó; nhiều tiền đề kinh tế - xã hội đã được chuẩn bị một cách tự nhiên
trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Những điều kiện vật chất cần thiết cho sự
nghiệp giải phóng giai cấp vô sản đã ra đời một cách tự phát trong quá trình
phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong tập I của
Tư bản, C.Mác nói về khuynh hướng lịch
sử của chủ nghĩa tư bản và nhân đó nhắc tới quy luật phủ định của phủ định. C.Mác cũng đã nêu ra mâu
thuẫn bản chất trong xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội ngày càng
cao của lực lượng sản xuất và sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư
liệu sản xuất. Mâu thuẫn này sẽ không được giải quyết chừng nào còn chủ nghĩa
tư bản. Do vậy, đây chính là tiền đề cho cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng xã
hội tất yếu xảy ra và nó mở đầu cho một giai đoạn lịch sử mới. C.Mác viết: “Sự
độc quyền của tư bản trở thành xiềng xích ràng buộc cái phương thức sản xuất đã
thịnh vượng lên cùng với độc quyền và dưới độc quyền đó. Sự tập trung tư liệu sản
xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với
cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... Phương thức
chiếm hữu tư bản chủ nghĩa do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra, và
do đó cả chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nữa đều là sự phủ định đầu tiên đối với
chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình
tự nhiên. Đó là sự phủ định của phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại
chế độ tư hữu, mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu
của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất
do chính lao động làm ra" [10].
Nói cách khác, chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại trong lòng
xã hội tư bản đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh
của chủ nghĩa tư bản.
Thứ tư, học thuyết về chủ nghĩa xã hội
Khi nói về tính tất yếu ra đời chủ nghĩa xã hội,
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một
trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải
khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa
bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề
hiện đang tồn tại đẻ ra”[11]. Như vậy, những
tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội xuất hiện trong lòng chủ nghĩa tư bản,
và sự xuất hiện chủ nghĩa xã hội là một tất yếu.
V.I.Lênin nhận
xét: “Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng
hạn, vấn đề tiến hoá của một giống sinh vật mới một khi đã biết nguồn gốc của
nó và định được rõ rệt hướng của những biến đổi của nó”[12].
“Ngày nay... chủ nghĩa xã hội đang hiện ra một cách trực tiếp, trên thực tiễn,
trong mỗi biện pháp quan trọng tạo thành một bước tiến trên cơ sở của chủ nghĩa
tư bản hiện đại ...”[13].
Triển vọng của chủ nghĩa xã hội không chỉ do chủ nghĩa xã hội hiện thực quy định
mà còn do chính quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản chuẩn bị những tiền đề
trên nhiều mặt của xã hội hiện đại. Với ý nghĩa đó, “Chủ nghĩa cộng sản là hình thức tất yếu và là
nguyên tắc kiên quyết của tương lai sắp tới”[14].
Thứ năm, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản
V.I.Lênin cho rằng C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu
tiên đã chỉ ra rằng giai cấp công nhân, với những yêu sách của họ, là sản phẩm
tất yếu của chế độ kinh tế hiện đại là cái chế độ, cùng với việc tạo ra và tổ
chức giai cấp tư sản, đang không tránh khỏi tạo ra và tổ chức giai cấp vô sản;
hai ông đã chỉ ra rằng không phải những mưu toan thiện ý của những cá nhân hào
hiệp, mà chính là cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản có tổ chức, sẽ giải
phóng loài người khỏi những tai họa hiện đang đè lên họ”[15].
“C.Mác và Ph.Ăngghen là những nhà duy vật chủ nghĩa. Xem
xét thế giới và loài người một cách duy vật, hai ông nhận thấy rằng cũng như
mọi hiện tượng trong giới tự nhiên đều có nguyên nhân vật chất, sự phát triển
của xã hội loài người là do sự phát triển của những lực lượng vật chất, sản
xuất quyết định… Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra những quan hệ
xã hội dựa trên chế độ tư hữu, nhưng ngày nay, chúng ta thấy cũng sự phát triển
ấy của lực lượng sản xuất lại tước mất sở hữu của đa số và tập trung sở hữu đó
vào tay một thiểu số rất nhỏ. Nó xóa bỏ cái chế độ sở hữu làm cơ sở cho trật tự
xã hội hiện đại, nó tự hướng tới chính cái mục đích mà những người xã hội chủ
nghĩa đã tự đề ra cho mình. Những người xã hội chủ nghĩa chỉ còn cần nhận rõ
được lực lượng xã hội nào do địa vị của nó trong xã hội hiện nay mà quan tâm
đến việc thực hiện chủ nghĩa xã hội, và làm cho lực lượng ấy giác ngộ về lợi
ích và sứ mệnh lịch sử của nó. Lực lượng đó là giai cấp vô sản”[16].
Trong tác phẩm Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản (1848), với sự luận giải một cách khoa học,
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định trong xã hội hiện đại, chỉ có giai cấp vô sản là
giai cấp cách mạng nhất, triệt để nhất, có khả năng lật đổ chủ nghĩa tư bản,
xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa. Đồng thời, Tuyên ngôn cũng chỉ rõ
trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, giai cấp công nhân tất nhiên phải lập ra
chính đảng của mình để lãnh đạo phong trào cách mạng.
Trong tác phẩm Chống
Duyrinh, khi nói về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ "... phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng bị buộc
phải hoàn thành cuộc cách mạng ấy, nếu không thì sẽ bị diệt vong”[17]. Rằng, “Thực
hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô
sản hiện đại” [18].
V.I.Lênin cũng khẳng định “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó
làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội
xã hội chủ nghĩa”[19].
Vì vậy, “C.Mác và Ph.Ăngghen đặt tất cả hy
vọng của mình vào sự lớn lên không ngừng của giai cấp vô sản. Càng có nhiều
người vô sản bao nhiêu thì lực lượng của họ, với tư cách là giai cấp cách mạng,
càng lớn lên bấy nhiêu, thì chủ nghĩa xã hội càng tới gần và càng có khả năng
được thực hiện bấy nhiêu”[20].
V.I.Lênin cho rằng: “Có thể vắn tắt nêu công
lao của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với giai cấp công nhân như sau: hai ông đã dạy
cho công nhân tự nhận thức được mình và có ý thức về mình, và đã đem khoa học
thay thế cho mộng tưởng”[21]. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen dạy
cho công nhân phương pháp đấu tranh trong sự nghiệp cách mạng lâu dài.
Về mặt nhận thức, chủ nghĩa Mác đã chấm
dứt thời kỳ “mò mẫm như trong đêm tối” của hàng triệu nhân dân lao động sống dưới
ách áp bức và bóc lột, tìm đường giải phóng cho mình. Lý luận của Mác được truyền bá rộng rãi trên toàn thế giới, có tầm ảnh hưởng
sâu rộng đến mọi quốc gia - dân tộc, đến các nền văn hóa - chính trị trong nhiều
bối cảnh lịch sử khác nhau.
“Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã nói rằng
giai cấp vô sản không phải chỉ là giai cấp đau khổ, rằng chính địa vị kinh tế
nhục nhã của giai cấp vô sản thúc đẩy, một cách không gì ngăn cản nổi, nó tiến
lên và buộc nó phải đấu tranh cho sự giải phóng cuối cùng của nó. Và giai cấp
vô sản đấu tranh sẽ tự mình giúp bản thân mình. Phong trào chính trị của giai
cấp công nhân nhất định sẽ dẫn công nhân đến chỗ hiểu rằng đối với họ, không có
lối thoát nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội”[22].
Rằng, "việc giải phóng giai cấp vô sản phải là sự nghiệp của bản thân giai
cấp vô sản".
Ph.Ăngghen cho rằng:
“Nghiên cứu những điều kiện lịch sử và do đó, nghiên cứu chính ngay bản chất của
sự biến đổi ấy, và bằng cách ấy làm cho giai cấp hiện nay đang bị áp bức và có
sứ mệnh hoàn thành sự nghiệp ấy hiểu rõ được những điều kiện và bản chất của sự
nghiệp của chính họ - đó là nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học, sự thể hiện
về mặt lý luận của phong trào vô sản”[23].
Ph.Ăngghen cho rằng,
giai cấp công nhân càng nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò và lý tưởng của
mình thì cuộc đấu tranh càng nhanh chóng thắng lợi. “Giai cấp vô sản càng tiếp thu tư tưởng xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa thì cách mạng sẽ càng ít đổ máu, báo thù và tàn
khốc”[24].
Về mặt đấu tranh, V.I.Lênin
viết, trước khi C.Mác và
Ph.Ăngghen xuất hiện “có nhiều người, có tài và vô tài, lương thiện và bất
lương, say sưa đấu tranh cho tự do chính trị, đấu tranh chống lại chế độ chuyên
chế của bọn vua chúa, cảnh sát và thầy tu, đã không nhìn thấy sự đối lập giữa
lợi ích của giai cấp tư sản với lợi ích của giai cấp vô sản. Những người ấy
không thừa nhận ngay cả đến ý nghĩ cho rằng công nhân có thể hoạt động với tư
cách là một lực lượng xã hội độc lập. Mặt khác, có nhiều người mộng tưởng, đôi
khi lại là những thiên tài, nghĩ rằng chỉ cần thuyết phục cho những nhà cầm
quyền và các giai cấp thống trị thấy được tính chất bất công của chế độ xã hội
hiện hành là cũng đủ để dễ dàng kiến tạo trên trái đất một nền hòa bình và một
nền thịnh vượng chung. Họ mơ tưởng có chủ nghĩa xã hội mà không cần đấu tranh.
Cuối cùng, hầu hết những người xã hội chủ nghĩa lúc đó và nói chung, những
người bạn của giai cấp công nhân chỉ thấy rằng giai cấp vô sản là một ung nhọt,
họ khiếp sợ thấy ung nhọt ấy lớn lên
cùng với sự phát triển của công nghiệp. Cho nên tất cả bọn họ đều tìm cách chặn
sự phát triển của công nghiệp và của giai cấp vô sản lại, chặn "bánh xe
lịch sử" lại”[25].
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng:
“Toàn bộ lịch sử thành văn từ trước đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp, là
sự thay thế nhau của những nền thống trị và những cuộc chiến thắng của những
giai cấp xã hội này đối với những giai cấp xã hội khác. Và tình trạng ấy sẽ còn
kéo dài mãi, chừng nào mà những cơ sở của đấu tranh giai cấp và của sự thống
trị giai cấp - tức là chế độ tư hữu và sự sản xuất xã hội vô tổ chức - vẫn chưa
mất đi. Lợi ích của giai cấp vô sản đòi hỏi phải tiêu diệt những cơ sở ấy, và
do đó cuộc đấu tranh giai cấp tự giác của những công nhân có tổ chức phải nhằm
chống lại những cơ sở ấy” [26].
Thông qua các hình thức
đấu tranh từ sơ khai, thô sơ, cục bộ đến đấu tranh cách mạng sâu sắc, toàn diện,
giai cấp công nhân ngày càng mạnh mẽ. Trong tác phẩm Tình cảnh của giai cấp
công nhân ở Anh, Ph.Ăngghen viết, hình thức sớm nhất, thô sơ nhất và ít hiệu
quả nhất của sự phản kháng là phạm tội. Công nhân phải sống nghèo khổ, bần
cùng mà lại thấy đời sống của kẻ khác khá hơn mình; anh ta không hiểu tại sao
chính anh ta là người lao động cho xã hội nhiều hơn bọn nhà giàu ăn không ngồi
rồi, mà lại phải chịu thiếu thốn như thế. Tiếp theo, dùng bạo lực để chống lại
việc sử dụng máy móc, phá máy móc, phá hủy công xưởng. Nhưng hình thức phản
kháng ấy cũng có tính chất cô lập, hạn chế ở những khu vực cá biệt và chỉ đạt
được thắng lợi chốc lát. Năm 1824, khi công nhân có quyền tự do lập hội thì những
công liên ra đời. Lịch sử của những công liên ấy là một chuỗi dài những
thất bại của công nhân, chỉ có vài lần thắng lợi cá biệt. Công nhân nhận rằng
muốn đập tan thế lực của giai cấp tư sản thì ngoài công liên và bãi công ra,
công nhân còn cần phải có cái gì khác hơn thế nữa. Công nhân đã hiểu rằng sự thống
trị của giai cấp tư sản chỉ xây dựng được trên sự cạnh tranh giữa công nhân với
nhau, tức là xây dựng trên sự chia rẽ của giai cấp vô sản, trên sự đối lập giữa
những loại công nhân này với những loại công nhân khác. Khi công nhân không
còn cạnh tranh lẫn nhau nữa, khi mọi người đều hạ quyết tâm không để cho giai cấp
tư sản bóc lột mình nữa thì vương quốc của chế độ tư hữu đến ngày tận số.
“Cuộc chiến tranh của người nghèo chống người giàu, hiện đang gián tiếp tiến
hành bằng hình thức xung đột nhỏ cá biệt, sẽ trở thành cuộc chiến tranh toàn diện
và công khai”[27].
“Sự phân hóa giai cấp ngày càng gay gắt, tinh thần phản kháng ngày càng ăn sâu
vào lòng người công nhân, sự căm phẫn càng tăng, những cuộc xung đột cá biệt kiểu
du kích đang mở rộng thành những cuộc chiến đấu và thị uy lớn hơn, và không lâu
nữa, chỉ cần một sự va chạm nhẹ cũng đủ gây nên sóng gió lở đất long trời” [28].
Ngoài việc xây dựng “vũ khí lý luận” cho giai cấp vô sản,
Ph.Ăngghen còn đảm nhiệm vai trò lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã
hội ở châu Âu, dành nhiều thời gian, công sức truyền bá tư tưởng, lý luận cách
mạng và khoa học của C.Mác, xây dựng các tổ chức cách mạng của giai cấp công
nhân.
Năm 1864, C.Mác đã sáng lập ra "Hội liên hiệp lao
động quốc tế" và lãnh đạo hội đó suốt trong 10 năm. Ph.Ăngghen cũng đã
tham gia tích cực vào công tác của hội đó. Hoạt động của "Hội liên hiệp
quốc tế", - hội, theo Mác, đã đoàn kết được vô sản ở tất cả các nước - có
một tác dụng to lớn đối với sự phát triển của phong trào công nhân. Qua đó,
người ta có thể nói vai trò của Ph.Ăngghen, với tư cách là người lãnh đạo thực
sự của phong trào công nhân, làm cho phong trào công nhân cũng phát triển không
ngừng.
Sau khi C.Mác mất, Ph.Ăngghen vẫn một mình tiếp tục làm
người cố vấn và chỉ đạo cho những người xã hội chủ nghĩa ở châu Âu. Đến xin ông
cho ý kiến và chỉ dẫn có cả những người xã hội chủ nghĩa Đức, là những người mà
lực lượng của họ, tuy bị chính phủ truy bức nhưng vẫn không ngừng lớn lên nhanh
chóng, và cả những đại biểu của các nước lạc hậu, chẳng hạn người Tây ban nha,
người Rumani, người Nga, là những người đang phải suy nghĩ và đắn đo trong bước
đi đầu tiên của họ. Tất cả họ đều nhờ đến kho tàng tri thức và kinh nghiệm
phong phú của Ph.Ăngghen.
V.I.Lênin đã khẳng định, Ph.Ăngghen là một
“bó đuốc sáng ngời” trong những trí tuệ anh minh, là một “trái tim vĩ đại”
trong những trái tim nhân loại.
Ph.Ăngghen, người chiến sĩ và người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, đời đời
sống mãi.
Kết luận
V.I.Lênin đã khẳng định:
“Toàn bộ thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề mà
tư tưởng tiên tiến của nhân loại nêu ra… Chủ nghĩa Mác là học thuyết vạn năng
vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó
cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ
một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức
của tư sản”[29].
Khi nói về giá trị, tính khoa học và bản chất cách mạng của học thuyết Mác,
V.I.Lênin đã khẳng định rằng, toàn bộ giá trị của học thuyết Mác là ở chỗ, lý
luận đó về bản chất là một lý luận có tính chất phê phán và cách mạng. Bất
cứ những quan tâm nào về xã hội, lịch sử đều có thể tìm thấy trong học thuyết
Mác những cơ sở khoa học cho lời giải đáp.
Gần 180 năm hình thành và phát triển, chủ nghĩa Mác
đã chứng tỏ vai trò to lớn của nó đối với sự phát triển nhận thức, tinh thần và
hiện thực của xã hội loài người, trước hết là cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Lịch sử nhân loại ngày nay
đã có nhiều thay đổi lớn lao, nhưng chủ nghĩa Mác vẫn chứng tỏ được sức sống của
nó. Bất cứ những quan tâm nào về xã hội, lịch sử đều có thể tìm thấy trong học
thuyết Mác những cơ sở khoa học cho lời giải đáp. Ngoài ra, từ chỗ phản ánh
khách quan, khoa học quá trình tất yếu của lịch sử nhân loại, chủ nghĩa Mác còn
cung cấp những quan điểm, nguyên tắc chung, cơ bản để nhận thức, giải thích
chính xác về cơ bản những chế độ xã hội, và con đường để xây dựng xã hội mới -
xã hội cộng sản.
Đánh giá
một cách rõ ràng và sâu sắc ý nghĩa và giá trị trong những phát kiến khoa học
của C.Mác đối với phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và nhân
loại tiến bộ, V.I.Lênin đã quả quyết khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa duy vật
triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát
khỏi chế độ nô lệ về tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống
lay lắt từ trước tới nay. Chỉ có học thuyết kinh tế của Mác là đã giải thích
được địa vị thực sự của giai cấp vô sản trong toàn bộ chế độ tư bản chủ
nghĩa” [30].
“Sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người xã hội chủ nghĩa của tất
cả các nước đi theo lý luận đó, chính là ở chỗ nó kết hợp tính chất khoa học
chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội) với tinh thần cách
mạng, và kết hợp không phải một cách ngẫu nhiên, không phải chỉ vì người sáng
lập ra học thuyết ấy đã kết hợp trong bản thân mình những phẩm chất của nhà bác
học và của nhà cách mạng, mà là kết hợp trong chính bản thân lý luận ấy, một sự
kết hợp nội tại và khăng khít"[31].
Có thể
nói, sau khi đã “nắm bắt thời đại bằng tư tưởng”, chủ nghĩa Mác đã thực hiện một
cuộc cách mạng vĩ đại trong nhận thức và cải tạo thế giới. Chủ nghĩa Mác không
chỉ là “công cụ nhận thức vĩ đại”, là khoa học hoàn chỉnh, chặt chẽ chấm dứt sự
tuỳ tiện, sự lộn xộn trong các quan niệm về lịch sử và chính trị, mà còn là
phương pháp cải tạo thế giới sâu sắc và triệt để.
Khảo nghiệm sự nghiệp cách mạng của của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động ở những nước đang xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
cũng như sự biến đổi của thế giới hiện thực từ khi chủ nghĩa Mác ra đời đến nay
đã chứng tỏ, những giá trị của chủ nghĩa Mác vẫn còn được khẳng định và tiếp tục
là nền tảng tư tưởng của chúng ta!
[1]V.I.Lênin: Toàn
tập, tập 23, Nxb. Tiến bộ, M.1977, tr.54.
[2]C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập1, Nxb. CTQG Hà Nội 1995, tr.157,
159
[3] C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG,
H,1995, tr.589-590
[4] C.Mác và Ph, Ăngghen: Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG,
H.1994, tr.12
[5]C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.19,
tr.496.
[6] V.I.Lênin, Toàn tập, tập
1, Nxb. Tiến bộ, M.1974, tr.161.
[7] V.I.Lênin, Toàn tập, tập
26, Nxb. Tiến bộ, M.1980, tr.69.
[8]V.I.Lênin. Sđd., t.1, tr.159, 163.
[11] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập,
tập 3, Nxb. CTQG, H.,1995, tr.51.
[12] V.I.Lênin, Toàn tập,
tập 33, Nxb. Tiến bộ, M. 1977, tr. 103-104
[13] V.I.Lênin, Toàn tập,
tập 34, Nxb. Tiến bộ, M., 1977, tr.258.
[14] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập,
tập 42, Nxb. CTQG, H., 2000, tr.183.
[15] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội 2005, tập 2, tr.3.
[16] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tập 2,
tr.7.
[17] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
1993, tập 20, tr.388-389.
[18] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
1993, tập 20, tr.393.
[19] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Matxcơva,
1980, tập 23, tr.1.
[20] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tập 2,
tr.5.
[21] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tập 2,
tr.5.
[22] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tập 2,
tr.7-8.
[23] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
1993, tập 20, tr.393.
[24] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
1993, tập 2, tr.697.
[25] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tập 2,
tr.4-5.
[26] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tập 2,
tr.3-4.
[27] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
1993, tập 2, tr.698.
[28] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
1993, tập 2, tr.698.
[29]V.I.Lênin. Sđd.,
t.23, tr.49-50.
[30]V.I.Lênin. Toàn
tập, t.23. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.57-58.
[31]V.I.Lênin. Sđd., t.1, tr.421.