Lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên CNXH là con đường cách mạng duy nhất đúng đắn, là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Tuy nhiên, thời gian qua trên một số diễn đàn, nhất là trên các trang mạng xã hội xuất hiện các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta. Để đấu tranh chống lại, phản bác lại quan điểm trên việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của thời kỳ quá độ lên CNXH và bỏ qua chế độ TBCN là hết sức quan trọng và cần thiết.
Hiện nay, nhất là trên các trang mạng xã hội xuất hiện các quan điểm sai trái, thù địch như: “Vì sao đến giờ này mà Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH”, chúng cho rằng, sự lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên CNXH ở Việt Nam là sai lầm, đẻ non, không đi theo quy luật; Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, từng là thành trì của CNXH cuối cùng cũng từ bỏ ngọn cờ để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Do đó, hiện nay Việt Nam nên chuyển hướng phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa mới phù hợp… tất cả những luận điểm này nhằm mục đích duy nhất đó là phủ nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay.
Trước luận điệu sai trái này, thì vai trò của người giảng dạy lý luận chính trị nói chung và giảng viên giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng càng trở nên quan trọng, vì họ chính là người người trực tiếp và chủ yếu giảng dạy, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước từ đó giúp cho người học hình thành niềm tin khoa học, năng lực chính trị, bồi đắp khả năng nhìn nhận, đánh giá khi tiếp cận các thông tin đa chiều liên quan đến việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về lý luận, trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật lịch sử Mác- Ăngghen đã luận giải, làm rõ về sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa là hoàn toàn tất yếu và mang tính quy luật.
Một trong những phát hiện vĩ đại của học thuyết Mác - Lênin là đã chỉ ra quy luật phát triển của xã hội loài người đó là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội( HTKTXH): Từ HTKTXH cộng sản nguyên thủy đến chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn đầu là xã hội XHCN). Trên cơ sở đó, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh và khẳng định, chủ nghĩa tư bản (CNTB) là một hình thái kinh tế - xã hội có nhiều tiến bộ, là nấc thang phát triển của lịch sử loài người, nhưng chính CNTB đã tạo ra những mâu thuẫn sẽ đưa xã hội tư bản đến chỗ bị phủ định và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa cộng sản.
Phát triển tư tưởng của C.Mac và Ph.Ăngghen về khả năng “phát triển rút ngắn” sau này được V.I.Lênin nêu thành khả năng “không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” để tiến lên CNXH đối với các nước, các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc, chậm phát triển. Vấn đề phát triển rút ngắn có thể phù hợp với sự đa dạng, phong phú, khác biệt về điểm xuất phát của các quốc gia khác nhau, chính nó tạo ra sự độc đáo của các quốc gia trong quá trình lên chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, rút ngắn là như thế nào, cái gì có thể rút ngắn và rút ngắn bao nhiêu thì hợp lý là những vấn đề không hề đơn giản.
Về thực tiễn, Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 90 năm qua đều bắt nguồn từ sự kiên định của Đảng Cộng sản Việt Nam, sức mạnh, khát vọng và niềm tin của nhân dân Việt Nam đối với chủ nghĩa xã hội - con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam. Đây là một trong những bài học lớn và cũng là di sản vô giá của cách mạng Việt Nam.
Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được nêu lên trong Cương lĩnh đầu tiên, phản ánh sự lựa chọn khách quan của lịch sử, cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu bức thiết của đại đa số các tầng lớp nhân dân Việt Nam.
Thực tiễn vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam sau năm 1930 cho thấy: sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản theo tư tưởng Cách mạng tháng Mười Nga, gắn liền độc lập dân tộc với CNXH là sự lựa chọn sáng suốt, duy nhất đúng đắn, gắn liền với vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người tìm đường, mở đường và dẫn đường cho dân tộc Việt Nam: “Có thể khẳng định rằng, các năm 1930, 1945, 1954, 1975, 1986 đã trở thành những cột mốc lịch sử quan trọng cho sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, tạo thành những sợi dây logic - lịch sử của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.[1]
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta tiếp tục con đường cách mạng đã lựa chọn, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực:
Về chính trị: Việt Nam có thể chế chính trị ổn định. Dù là một trong những quốc gia có nhiều dân tộc nhất thế giới nhưng với chính sách của nhà nước Việt Nam: đoàn kết dân tộc, tôn giáo; khuyến khích, tạo điều kiện cho các dân tộc phát triển bình đẳng, Việt Nam không có xung đột sắc tộc; toàn dân đoàn kết cùng Đảng, Nhà nước xây dựng đất nước.
Về kinh tế: Việt Nam đang là 1 trong những quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới. Theo số liệu Tổng cục thống kê năm 2023, GDP Việt Nam đạt khoảng 430 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 4.300 USD, gấp 50 lần so với năm 1986; đứng thứ 5 trong khối ASEAN (Sau Singgapo, Malaysia, Indonexia, Thái Lan), đứng thứ 34 thế giới (Năm 1986 GDP Việt nam xếp thứ 9/10 nước ASEAN, xếp thứ 137/193 quốc gia). Và nếu giữ được sự ổn định như hiện nay, đến năm 2045 GDP Việt Nam sẽ vào khoảng 1677 tỷ USD, chỉ sau Inđonexia và vào top các quốc gia có thu nhập cao trên thế giới.
Về ngoại giao: Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó là đối tác chiến lược, toàn diện với tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Về an ninh, quốc phòng: Do có nền chính trị ổn định nên Việt Nam vào top các quốc gia an toàn nhất, là 1 trong 15 nước không có nội chiến và xung đột sắc tộc; tội phạm, tệ nạn xã hội từng bước bị đẩy lùi.
Tất cả những điều đó cho thấy đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới đất nước hiện nay bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, thì còn những hạn chế, yếu kém do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu.
Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Điều quan trọng là Đảng ta đã nhận ra sai lầm, khuyết điểm để sửa chữa, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước ngàycàng phát triển.
Như vậy, trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn trên giảng viên có thể khẳng định chắc chắn rằng đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Bởi chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Nhân dân ta quyết không chấp nhận con đường nào khác ngoài con đường đi lên CNXH.
Nghiêm Thị Hà, Khoa Lý luận cơ sở
-----
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ chính trị, Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.Hà Nội, 2018
2. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021
3. GS.Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.
CHÚ THÍCH
[1] GS,TS Lê Hữu Nghĩa: “Kiên định con đường đã chọn”, Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2010, tr.20