NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 61 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH HẢI DƯƠNG (27/7/1963 - 27/7/2024) VÀ 95 NĂM NGÀY NGÀY THÀNH LẬP CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM (28/7/1929 - 28/47/2024)!
Bảo vệ nền tảng tư tường
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ MỘT CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CẦN PHẢI VÀ CÓ THỂ ĐƯỢC XÂY DỰNG

TS. Phạm Xuân Thiên – Trưởng khoa LLCS

Tóm tắt: Ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị khoá XII đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Trong đó nêu rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; ... Nghị quyết là sự kề thừa đầy đủ và phát triển sáng tạo những quan điểm, đường lối của Đảng và trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay.

Nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình hiện nay gồm có nhiều nội dung. Một trong những nội dung rất quan trọng là bảo vệ và phát triển những giá trị thời đại, bản chất khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, ... trước sự chống phá của kẻ thù. Để nung lạc tinh thần, ý chí của Đảng và nhân dân ta, xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chúng thường tập trung đưa ra những luận điểm hết sức sai trái cho rằng: chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ trong khi chủ nghĩa tư bản đang tồn tại và có bước phát triển mới điều đó có nghĩa là chủ nghĩa Mác là sai lầm; chủ nghĩa xã hội là huyễn tưởng lịch sử và đã lụi tàn, ...

Nhằm nâng cao nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi liên chủ nghĩa xã hội chủa Việt Nam; góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay, trong bài viết này, tác giả xin được tập trung luận giải về lịch phát triển của chủ nghĩa xã hội và chứng minh rằng chủ nghĩa xã hội không phải là huyễn tưởng lịch sử, càng không phải do Mác tự sáng tạo ra. Trong một thế giới đầy biến động nhanh chóng, sâu sắc và khó lường, lịch sử có thể đã có nhiều thay đổi, ... nhưng chủ nghĩa xã hội vẫn là một xã hội cần phải và có thể được xây dựng trên thực tế ở tất cả các mặt.

Từ khóa: Chủ nghĩa xã hộị; chủ nghĩa xã hộị khoa học; phong trào xã hội chủ nghĩa; học thuyết xã hội chủ nghĩa; chế độ xã hội chủ nghĩa.

1. Đặt vấn đề

Tháng 2 năm 1848, một sự kiện chính trị, tư tưởng có ảnh hưởng lớn làm chấn động Châu Âu và thế giới đó là sự ra đời tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Sự kiện đánh dấu sự hình thành của chủ nghĩa Mác với tư cách là một hệ thống. Sự ra đời của tác phẩm cũng đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển của lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ không tưởng trở thành khoa học. Đồng thời, báo hiệu một thời kỳ bão táp cách mạng vô sản trên toàn thế giới. Trong phần mở đầu của tác phẩm, C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Một bóng ma đang ám ảnh châu Âu; bóng ma chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các thế lực châu Âu cũ, Giáo hoàng và Nga Hoàng. Mét-tec-ních và Ghi đô, bọn cấp tiến Pháp và bọn cảnh sát Đức đều liên hiệp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử bóng ma đó… Từ đó rút ra hai kết luận: Chủ nghĩa cộng sản đã được tất cả các thế lực ở châu Âu thừa nhận là một thế lực. Hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một tuyên ngôn của đảng mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản” (1: 595).

Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn lũng đoạn nhà nước, V.I Lênin là lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân đã kế thừa và phát triển sáng tạo những tư tưởng của chủ nghĩa xã hộị khoa học. Đồng thời, lãnh đạo Đảng Bôn-sê-vích và giai cấp công nhân Nga làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới giành lợi hoàn toàn, đưa chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết trở thành một chế độ xã hội hiện thực. Ngay từ đầu, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đã thể hiện tính ưu việt, cổ vũ các dân tộc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trước những biến động của của lịch sử; đặc biệt là những sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức lý luận và tổ chức thực tiễn của các đảng sộng sản đã làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô rơi vào khủng hoảng trầm trọng và cuối cung là sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô năm 1991.

Trước những tổn thất to lớn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cuối thế kỷ XX, một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực từ năm 1991 đến nay đứng trước vô vàn khó khăn, thử thách. Đặc biệt, phải kể đến những luận điệu xuyên tạc, chống phá quyết liệt của những quan điểm sai trái, thù địch.

Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực nói chung và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam nói riêng đã chỉ rõ, trong giai đoạn hiện nay nhiệm vụ bảo vệ nền tảng của Đảng, đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh bảo về những giá trị bền vừng của chủ nghĩa Mác - Lênin trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phải có lý tưởng, niềm tin vững chắc vào chủ nghĩa xã hội trên cơ sở khoa học. Nói cách khác, phải xây dựng niềm tin vững chắc vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở hiểu được thế nào là chủ nghĩa xã hội.

2. Chủ nghĩa xã hội là gì?

Cho đến nay, đã có nhiều cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, “chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể” (1).

Với tư cách là một phong trào hiện thực của quần chúng, chủ nghĩa xã hội ra đời từ rất sớm từ trong thời kì cổ đại. Ngay từ khi xuất hiện chế độ tư hữu và sự phân chia xã hội thành các giai cấp, vì bị áp bức và bóc lột, những người lao động luôn đấu tranh chống lại áp bức và bóc lột; ... Đồng thời, trong chính các phong trào đấu tranh ấy đã xuất hiện của tinh thần nhân văn, nhân đạo cao cả; đấu tranh bảo vệ những người lao động, bênh vực những người nghèo, ... Tuy nhiên, do những hạn chế của lịch sử trong điều kiện chế độ chiếm hữu nô lệ, những phong trào này nhanh chóng bị đàn áp. Vì bị đán áp tàn khốc nên quần chúng lao động chỉ còn biết “thở dài” trước đau khổ và mơ ước, khát vọng, ... về một xã hội tự do, công bằng, bình đẳng, không còn áp bức bóc lột, ... Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa đầu tiên cũng dần dần xuất hiện và điều này thể hiện một cách rõ nhất trong các tôn giáo. Sự bất lực của những con người đau khổ đã sinh ra niềm tin vào “tương lai” nhưng không phải tương lai trong chính cuộc đời trần thế mà là ở kiếp sau. “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần” (2: 570).

Với tư cách là một học thuyết, chủ nghĩa xã hội cũng có những cội nguồn lịch sử của nó mà điểm xuất phát chính là những tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện ngày từ trong lòng xã hội chiếm hữu nô lệ. Nếu như trong thời kỳ cổ đại, những tư tưởng xã hội chủ nghĩa chủ yếu được thể hiện là ước mơ, niềm khát vọng của quần chúng bị áp bức, bóc lột thì cùng với sự phát triển của lịch sử, đến khoảng thế kỉ XVI - XVII, những tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã có sự phát triển mạnh mẽ thể hiện thành văn chương xã hội chủ nghĩa. Tiêu biểu phải kể đến Tômát Morơ với tác phẩm Không tưởng (Utopie); Tômađô Campanenla với tác phẩm Thành phố mặt trời; hay Giêrắcdơ Uynxtenli, ... Đặc biệt Trong tác phẩm Không tưởng (Utopie), Tômát Morơ đã đề cập nhiều nội dung cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa như, nguyên nhân sâu xa của mọi tệ nạn xã hội, của áp bức và bất công trong lòng xã hội tư bản là chế độ tư hữu. Từ những quan điểm ấy, Tômát Morơ đã mô tả tình trạng phân hoá giàu, nghèo, những áp bức và bất công trong xã hội tư bản ngay khi mới hình thành. Theo ông, sự khốn cùng của người nông dân do quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản mang lại... Vì vậy, theo Tômát Morơ muốn xoá bỏ bất công, áp bức, xoá bỏ tình trạng phân hoá giàu nghèo trên cơ sở xoá nguyên nhân tận gốc của nó là chế độ tư hữu. Với những quan điểm nêu trên, Tômát Morơ được xếp vào một trong số các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa vĩ đại của thế kỷ XVI.

Đến khoảng thế kỷ XVIII những tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã có sự phát triển rực rỡ trở thành lý luận, thành các học thuyết, ... Trong số đó phải kể đến lý luận của các nhà tư tưởng Pháp: Giăng Mêliê, Gabriendơ Mably, Grắccơ Babớp, ... Đặc biệt là Grắccơ Babớp đã trở thành lãnh tụ của lực lượng chính trị mới đang lên đó là tầng lớp tiểu tư sản có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và ông đã nêu ra bản Tuyên ngôn của những người bình dân. Đây được coi là một cương lĩnh hành động với những nhiệm vụ, những biện pháp và cách thức cụ thể được thực hiện ngay trong tiến trình cách mạng.

Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX đã dần xuất hiện các học thuyết về chủ nghĩa xã hội và bản thân khái niệm chủ nghĩa xã hội cũng xuất hiện trong thời kỳ này; tức là trước khi có chủ nghĩa Mác. Tiêu biểu phải kể đến chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán của Cơlôđơ Hăngri Đơ Xanh Ximông; Sáclơ Phuriê và Rôbớt Ôoen, ... Hầu hết các quan niệm, các luận điểm của các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng - phên phán đều chứa đựng tinh thần nhân văn, nhân đạo cao cả; phê phán, lên án chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa. Đồng thời, đã nêu được lên nhiều luận điểm có giá trị về sự phát triển của xã hội tương lai mà sau này đã được C. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa và phát triển có chọn lọc trên cơ sở những tiến bộ của khoa học. Bên cạnh đó, một số nhà tư tưởng đã xả thân, lăn lộn hoạt động trong các phong trào thực tiễn; ... Những hoạt động này đã góp phần thức tỉnh phong trào công nhân và người lao động, để từ đó nghiên cứu, phát hiện và đề xuất những giá trị tư tưởng mới.

Tuy nhiên, cho đến tận trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, những tư tưởng, học thuyết về chủ nghĩa xã hội cũng không vượt lên và thoát ra được những hạn chế không tưởng. Đó là, không chỉ ra được con đường, lực lượng và bước đi thực sự khoa học đề xây dựng xã hội mới. Họ thường đề cao những con người tài ba xuất chúng, không phát hiện ra lực lượng xã hội tiên phong; thậm chí coi thưởng vai trò của giai cấp công nhân và những người lao động; đi theo con đường ôn hoà để cải tạo xã hội bằng pháp luật và thực nghiệm xã hội; ...

Tháng 2 năm 1848, sự ra đời của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác với tư cách là một hệ thống. Đồng thời, bằng sự kế thừa những thành tựu của lịch sử tư tưởng trước đó; bổ sung và phát triển bằng thực tiễn và những thành tựu của khoa học, C.Mác và Ph. Ăngghen đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa đó là đưa chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành một học thuyết khoa học và cách mạng.

Với tư cách là một chế độ xã hội hiện thực, chủ nghĩa xã hội lần đầu tiên ra đời sau thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. Cách mạng Tháng Mười đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại. Đánh dấu bước chuyển biến của chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết khoa học thành một chế độ xã hội hiện thực. Đây cũng chính là giai đoạn chủ nghĩa xã hội hiện thực trải qua những thăng trầm, biến động, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã đạt được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử và thời đại nhưng cũng đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng phải trả giá. Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Về kinh tế, Liên Xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã có sự phát triển nhanh chóng về cơ sở vật chất - kỹ thuật; chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng trên quy mô lớn với trình độ hiện đại. Đến năm 1970, chỉ riêng các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu đã chiếm 40% sản lượng công nghiệp thế giới, 1/3 giá trị xuất khẩu toàn thế giới. Trong đó, có 4 nước được xếp trong số 20 nước phát triển của thế giới (Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc). Từ năm 1950 đến 1980, các nước xã hội chủ nghĩa đã tăng 13 lần tiềm lực kinh tế; 14 lần tổng sản lượng công nghiệp và 30% tổng sản phẩm toàn cầu hằng năm (2). Khi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ bằng 1/22 của Mỹ ) nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Liên Xô đã trở thành một trong hai siêu cường của thế giới. Năm 1985, thu nhập quốc dân của Liên Xô bằng 66% của Mỹ, sản lượng công nghiệp bằng 85% của Mỹ (3).

Về chính trị, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; hệ thống chuyên chính vô sản từng bước được hoàn thiện mà nhà nước xã hội chủ nghĩa là trung tâm. Đồng thời, thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội của đảng thông qua nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa vừa từng bước đưa quần chúng nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, vừa thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới. Xuất phát từ bản chất giai cấp công nhân, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng thể hiện tính ưu việt từ đó cổ vũ phong trào đấu tranh cho quyền tự do dân chủ ở các nước trên toàn thế giới. Chế độ xã hội chủ nghĩa đã tạo ra thế đối trọng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.

Về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, trong quá trình phát triển của mình, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước đã tạo nên nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực văn hoá; khoa học - kỹ thuật; giáo dục và đào tạo. Đã có thời kỳ Liên Xô dẫn đầu thế giới về các chỉ tiêu về phát triển văn hoá, khoa học - kỹ thuật và giáo dục đào tạo. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được những bước tiến lớn trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và công nghiệp quốc phòng hùng mạnh. Liên Xô viết đã có công lớn trong đào tạo giúp các nước xã hội chủ nghĩa; các nước lạc hậu phát triển nguồn nhân lực. Chính đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và lãnh đạo quản lý được Liên Xô đào tạo, bồi dưỡng và đã đóng góp tích cực cho sự phát triển của quốc gia.

Về xã hội, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã có nhiều đóng góp vào giải quyết hàng loạt vấn đề xã hội, thu được những thành tựu đáng kể trong việc chăm sóc sức khỏe, phát triển y tế và bảo đảm phúc lợi xã hội cho nhân dân lao động. Với chính sách xã hội vì con người mà trước hết là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác như: chính sách lao động việc làm; chính sách giáo dục miễn phí; chính sách y tế khám chữa bệnh miễn phí; nhà ở; chính sách với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ… đã thể hiện rõ bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội.

Về đối ngoại, sự lớn mạnh toàn diện, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã mở ra kỷ nguyên mới là độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Với sự giúp đỡ tích cực, có hiệu quả về nhiều mặt của các nước xã hội chủ nghĩa đặc biệt là Liên Xô, phong trào giải phóng dân tộc đã phát triển mạnh mẽ và đạt được những bước tiến lớn. Nhiều dân tộc giành lại độc lập dân tộc, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa cả ở châu Âu, châu Á và khu vực Mỹ Latinh. Năm 1919, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa chiếm tới 72% diện tích với 70% dân số, đến đầu thế kỷ XXI, chỉ còn 0,7% diện tích và 5,3% dân số thế giới.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chủ nghĩa xã hội hiên thực từ năm 1917 đến năm 1991 cũng bộc lộ những hạn chế nhất định làm cho tính ưu việt của nó không được phát huy đầy đủ.

Về kinh tế, nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mang tính chủ quan, áp đặt, thiếu tôn trọng thậm chí vi phạm quy luật khách quan. Vì chủ quan, nóng vội nên đã tuyệt đối hóa biện pháp hành chính để xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Việc nhấn mạnh đặc trưng công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể được coi là nguyên tắc bất biến, bất chấp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của chế độ công hữu được coi là thước đo cho sự hoàn thiện của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Từ đó, áp đặt chế độ quản lý kế hoạch hóa tập trung cao độ trong thời gian dài, phủ nhận kinh tế thị trường, ... mà kết quả là sản xuất rơi vào đình trệ, suy thoái.

Về chính trị, do nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin còn xơ cứng, máy móc, giáo điều, đề cao tính phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi nhẹ tính đặc thù dân tộc, làm mất đi tính khoa học, tính sáng tạo vốn có của chủ nghĩa Mác - Lênin; vai trò, phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền chưa thực sự được quan tâm làm rõ; chưa có sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của đảng và chức năng quản lý của nhà nước; những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới mà nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ không được thực hiện nghiêm túc dẫn đến tình trạng mất dân chủ trong đảng, tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái tư tưởng trong cán bộ, đảng viên diễn ra với mức độ ngày càng trầm trọng ở nhiều nước, những lợi ích của đảng đã bị thay thế bởi lợi ích cá nhận, ... Chính điều này đã làm suy giảm lòng tin, bất bình của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Đồng thời, trở thành mảnh đất tốt cho các thế lực thù địch thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình nhằm phá hoại trên các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, chính trị.

Về văn hóa, xã hội, có xu hướng tuyệt đối hóa văn hóa xã hội chủ nghĩa; không thấy sự tồn tại đa dạng cần kế thừa của bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp biến tinh hoa văn hóa nhân loại. Các nước đều thực hiện chủ trương sớm xây dựng cơ cấu xã hội - giai cấp của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, muốn xóa thật nhanh các giai, tầng được coi là “phi xã hội chủ nghĩa”.

Về đối ngoại, các nước xã hội chủ nghĩa thời kỳ này coi trọng quan hệ nội bộ các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa hơn việc mở rộng với các nước có chế độ chính trị khác nhau, … thậm chí phủ nhận mọi yếu tố kể cả các thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản.

Những sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức lý luận và chỉ đạo thực tiễn đã đưa chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào khủng hoảng trầm trọng và dẫn đến một “thảm họa” địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX và cũng là lớn nhất của lịch sử chính trị thế giới. Đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và sự tan dã của Liên Xô mà hậu quả của nó đến tận ngày hôm nay.

Sau thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trong đó có Việt Nam vẫn tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

Đối với Việt Nam, từ những bài học thành công và thất bại của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam. Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong điều kiện quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thắng lợi của hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam đã góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời đem lại cho chủ nghĩa xã hội hiện thực một diện mạo mới đầy sức sống. “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước” (3: 25).

Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới 1986 - 1990, mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 2016 - 2019 đạt khá cao ở mức bình quân 6,8%. Năm 2020, nền kinh tế của Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19, thiên tai, bão lụt nghiêm trọng ... nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam bình quân giai đoạn 2016 - 2020 vẫn đạt khoảng 6%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 ước đạt khoảng 271,2 tỷ USD. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.779 USD/năm (4).

Những thành tựu của hơn 35 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa của Việt Nam là sự lựa chọn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; phù hợp với quy luật của lịch sử và phù hợp với thực tiễn Việt Nam và ngày càng được xác định rõ ràng hơn. Đồng thời, lịch sử cách mạng Việt Nam cũng đã khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

3. Vững tin vào con đường chúng ta đã chọn

Từ trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa hội; đặc biệt là những bài học thành công cũng như thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô chúng ta có thể đi đến những nhận thức sau đây:

Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa Mác, càng không phải do Mác tự sáng tạo ra. Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa đầu tiên đã xuất hiện từ trong thời kỳ cổ đại. Lịch sử có thể trải qua những thăng trầm, quanh co, phức tạp nhưng không gì có thể ngăn được con người và loài người vươn tới một chế độ xã hội thực sự tự do, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột, một chế độ xã hội thực sự vì con người, cho con người.

Thứ hai, mặc dù mắc phải những sai lầm, khuyết điểm dẫn đến đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu, sự tan dã của Liên Xô nhưng không thể phủ nhận thực tế rằng chủ nghĩa xã hội hiện thực đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Điều đó càng cho thấy rằng, nhân loại hoàn toàn có thể đi đến một xã hội thực sự tự do, bình đẳng không còn áp bức, bóc lột mà không cần phải “trả giá” dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.

Thứ ba, chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng và đổ vỡ không phải do chủ nghĩa Mác - Lênin là sai lầm mà là trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin người ta đã đi ngược lại những vấn đề có tính nguyên tắc, thậm chí phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin. Thắng lợi sẽ đến với những ai kiên định vào lý tưởng cộng sản; kiên định vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; vận dụng dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề cụ thể trong điều kiện cụ thể. Đúng như V.I Lênin đã khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý thuyết đó chỉ đặt nền móng cho một môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống” (4:232).

Thứ tư, sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu không phải là sự thất bại của chủ nghĩa xã hội mà là thất bại của một mô hình thử nghiệm chưa phải là chủ nghĩa xã hội trong một số quốc gia cụ thể. Chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt dù kẻ thù đang dùng mọi thủ đoạn, trăm phương ngàn kế nhằm chống phá, xuyên tạc, bôi nhọ.

Thứ năm, ngày nay, lợi dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, chủ nghĩa tư bản đã có sự điều chỉnh và thích ứng, nhưng với việc duy trì, bảo vệ chế độ tư hữu, tức là bảo vệ cơ sở kinh tế, nguồn gốc của bóc lột, áp bức, bất công, ... chủ nghĩa tư bản không phải là cái đích mà con người hướng tới. Với việc đặt lợi ích cá nhân lên hàng đầu chủ nghĩa tư bản không chỉ thức đẩy sản xuất mà còn thúc đẩy chủ nghĩa cường quyền, chiến tranh, bạo lực, ... chủ nghĩa tư bản không có khả năng giải quyết những vấn đề cấp bách của thời đại. Chủ nghĩa tư bản thay thế xã hội phong kiến vì nó ưu việt hơn xã hội phong kiến. Theo quy luật, một xã hội mới nhất định sẽ thay thế xã hội tư bản như nó đã từng thay thế xã hội phong kiến. Xã hội đó nhất định sẽ khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa tư bản, nhất là việc xóa bỏ tận gốc nguồn gốc, cơ sở của bóc lột.

Từ lý luận và thực tiễn, đến đây chúng ta có thể khẳng định và vững tin rằng, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội cần phải và có thể được xây dựng trên thực tế nếu các Đảng Cộng sản luôn tuân thủ những nguyên tắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Những diễn biến tình hình chính trị thế giới những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, nhất là sự tan rã của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và sự sụp đổ của Đông Âu thực chất là sự sụp đổ của một “mô hình” chủ nghĩa xã hội. Điều này cũng không xuất phát từ những sai lầm của chủ nghĩa Mác mà xuất phát từ những sự phản bội chủ nghĩa Mác có tính chất hệ thống.

Thực tiễn những năm đầu thế kỷ XXI đã và đang chứng kiến ngày càng nhiều những trào lưu, xu hướng mới nảy sinh trong nhận thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay. Ở một số nước, các đảng cộng sản, đảng công nhân, Đảng cánh tả, ... đã có những nhận thức mới, phù hợp hơn về những mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở kế thừa những giá trị lý luận của học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng quốc gia, dân tộc.

Lịch sử đang đi đúng hướng, tuy rằng nó không nhanh như chúng ta mong đợi. Đến đây tôi xin phép nhắc lại một câu của C. Mác và Ph. Ănghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: Như vậy, cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiến hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu” (5: 557)./.

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Phú Trọng (2021), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Bài viết nhân kỷ niệm 131 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2021) và bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/

(2), (3) Nguyễn Anh Thái (chủ biên) (1998), Lịch sử thế giới hiện đại (1917 - 1955), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.258-259

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 9.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

1. C.Mác và Ph. Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật. Hà Nội, tr. 595.

2. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tâp 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 437-570.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 25.

4. V.I. Lê-nin (1980), Toàn tập, tập 4, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, tr. 232.

5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.557.

Các tin mới hơn
Tăng cường đấu tranh phản bác những âm mưu xuyên tạc về Chủ tich Hồ Chí Minh(11/11/2023)
KHÔNG THỂ ĐỂ THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG VÀ CÁC PHẦN TỬ CƠ HỘI CHÍNH TRỊ KÍCH ĐỘNG HẬN THÙ, CHIA RẼ DÂN TỘC (11/11/2023)
Nâng cao ý thức, trách nhiệm của giảng viên Trường chính trị tỉnh Hải Dương trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng(25/09/2023)
ĐẤU TRANH BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, ĐÁNH ĐỒNG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM VỚI CUỘC XUNG ĐỘT NGA - UKRAINE HIỆN NAY(21/09/2023)
BẢO VỆ LỢI ÍCH NHÂN DÂN HAY CHIÊU TRÒ LỢI DỤNG, LÔI KÉO, KÍCH ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TÚY (21/09/2023)
Các tin cũ hơn
Hệ thống văn bản
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
Liên kết website
Bộ CHQS tỉnh Hải Dương Bảo Tàng tỉnh Hải Dương
http://dochoi.haiduong.net.vn

Mua sắm đồ chơi online, Chuyên đồ chơi điều khiển từ xa, chuyên xếp hình Lego, chuyên siêu xe, bán buôn bán lẻ đồ chơi, hải dương, đồ chơi rẻ nhất, đồ chơi độc đáo, đồ chơi hải dương uy tín