Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người am hiểu rất sâu sắc về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã dành nhiều công sức nghiên cứu lý luận và thực tiễn nông nghiệp, nông dân và nông thôn nhiều quốc gia, đặc biệt là một số quốc gia châu Á, nhằm tham chiếu, giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Đương nhiên, Người đặc biệt am hiểu nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam. Người đã phê phán mạnh mẽ chế độ thống trị của thực dân, đế quốc và tay sai cùng những chính sách phản động của chúng đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam. Người thấy rõ những đặc điểm của nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam, cả những điểm mạnh và điểm yếu, ưu điểm và hạn chế, để khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Người đã lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân ta hoạch định và thực hiện nhiều đường lối, chính sách phát triển đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Với sự am hiểu và mối quan tâm đặc biệt như thế, trong sự nghiệp của Người, Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều tư tưởng quan trọng và có giá trị về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”[1] và khẳng định: “Phải phát triển nông nghiệp một cách toàn diện”. Phát triển nông nghiệp toàn diện là một tất yếu khách quan, là cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác, tạo điều kiện cho công nghiệp hóa nước nhà. Mặc dù những tư tưởng đó ra đời trong bối cảnh cụ thể, gắn với những điều kiện cụ thể, và bối cảnh, tình hình Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều khác biệt so với Việt Nam lúc sinh thời của Hồ Chí Minh, nhưng nhiều tư tưởng của Người về nông nghiệp, nông dân, nông thôn vẫn có giá trị và sức sống vượt thời gian, có sức gợi mở, định hướng nhận diện, giải quyết nhiều vấn đề có liên quan của Việt Nam hiện nay. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp toàn diện gồm những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đó là sự cân đối, hợp lý trong cơ cấu ngành nông nghiệp và với các ngành khác.
Đối với một đất nước xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu đi lên thì công nghiệp và nông nghiệp càng là hai ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, có quan hệ khăng khít với nhau. Do đó, khi nói về vị trí, vai trò của nông nghiệp trong mối quan hệ với các ngành kinh tế khác, Người ví công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của con người, người không thể thiếu một chân, thì nước không thể thiếu một bộ phận kinh tế. Hồ Chí Minh khẳng định: “…nông nghiệp chiếm bộ phận lớn trong kinh tế mà sản xuất nhỏ lại chiếm bộ phận lớn trong nông nghiệp. Vì nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu, đồng thời là một nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ to nhất hiện nay, cho nên cần phải cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác…”[2]. Người dùng từ “khập khiễng” để phê phán sự phát triển không đồng bộ giữa công nghiệp và nông nghiệp, để lưu ý toàn Đảng, toàn dân phải chú ý đúng mức đến phát triển nông nghiệp. Là “hai chân của nền kinh tế” phải phát triển vững chắc cả hai: “Công nghiệp và nông nghiệp là như hai chân của nền kinh tế nước nhà. Chân phải thật vững thật khỏe, thì kinh tế mới tiến bộ thuận lợi và nhanh chóng”[3].
Xuất phát từ đặc điểm, điều kiện, vị trí, vai trò của nông nghiệp, phải bắt đầu trước hết từ giải quyết vấn đề phát triển nông nghiệp để đảm bảo đời sống cho nhân dân. Tuy nhiên, không chỉ ngành nông nghiệp phát triển, sự phát triển của nông nghiệp phải được đặt trong mối quan hệ khăng khít và tác động qua lại với phát triển công nghiệp và thương nghiệp. Có nghĩa là, phát triển toàn diện phải là nông nghiệp đảm bảo sự phát triển cân đối, hợp lý giữa các ngành của nền kinh tế
Thứ hai, phát triển nông nghiệp toàn diện là giải pháp quan trọng để phát triển bản thân nền nông nghiệp.
Kinh tế nông nghiệp bao gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Sự phát triển của từng bộ phận trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp sẽ làm cho toàn ngành nông nghiệp phát triển và đảm bảo sự phát triển cân đối.
Theo Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp toàn diện trước hết phải là một nền nông nghiệp có ngành trồng trọt phát triển, mà đầu tiên là phải chú ý trồng cây lương thực, bởi vì “nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực”. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp toàn diện đó là sự phát triển của ngành nông nghiệp, đó không chỉ ở tăng quy mô, diện tích mà còn ở năng suất, sản lượng và sự phù hợp trong cơ cấu với các loại cây trồng, ngành nghề khác. Trong các cây lương thực, Người xác định cây lúa là chủ lực, sau đó trồng các loại cây hoa màu như ngô, khoai, sắn để phục vụ chăn nuôi: “Sản xuất phải toàn diện, sản xuất thóc là chính, đồng thời phải coi trọng hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, thả cá và nghề phụ”[4]. “Trong trồng trọt phải chú ý toàn diện. Trồng cà phê, trồng lúa nhưng đồng thời phải chú ý trồng lạc, trồng vừng vì lạc, vừng là thứ hàng xuất khẩu rất tốt để đổi lấy máy móc…”[5].
Không chỉ ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi phải phát triển để bảo đảm có thêm thịt ăn, thêm sức kéo, thêm phân bón phục vụ cho trồng lúa, hoa màu, đồng thời phát triển ngành ngư nghiệp và các ngành kinh tế gắn liền với biển.
Để nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân được cải thiện, Người chỉ rõ cần phải phát triển thêm các nghề phụ gia đình ở nông thôn. Bởi đặc điểm của nghề nông mang tính thời vụ có nhiều ngày nông nhàn và do diện tích đất canh tác hạn chế, ở nhiều vùng thị trường hàng hóa chưa phát triển, để bảo đảm cuộc sống ổn định, các hộ gia đình nông thôn đã có thêm nghề phụ để tận dụng lao động và tăng thêm thu nhập. Những nghề phụ dần dần phát triển thành nghề chính ở các làng nghề nhưng vẫn tồn tại song song với nghề nông.
Nông nghiệp toàn diện còn bao gồm các ngành nghề phụ và ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Do vậy, đồng thời với phát triển ngành nông nghiệp, cần phát triển nghề phụ gia đình như nghề mây, tre đan, nghề gỗ, chạm khảm, nghề dệt… Phát triển các ngành nghề phụ ở nông thôn vừa nâng cao đời sống của người dân, vừa duy trì bản sắc của các làng nghề truyền thống, vừa thúc đẩy phát triển ngành nông nghiệp.
Thứ ba, phát triển nông nghiệp toàn diện còn được thể hiện ở sự hợp lý trong trình tự phát triển và điều kiện phát triển.
Phát triển nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực, coi đó là điểm đột phá để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, trong nhiều bài nói và viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trước hết ở việc tăng gia sản xuất lương thực, kể cả lúa và màu. Phát triển nông nghiệp toàn diện và mở rộng ngành nghề ở nông thôn, không chỉ nhằm khai thác, tận dụng các yếu tố sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống người lao động mà còn có tác dụng góp phần bảo vệ, giữ gìn và cải tạo môi trường sinh thái, cũng như ảnh hưởng tích cực đến trạng thái tâm lý và thái độ của con người đối với thiên nhiên và xã hội. Tuy nhiên, tăng gia, mở rộng sản xuất phải phù hợp với điều kiện của từng địa phương.
Người khẳng định: “Phải phát triển nông nghiệp một cách toàn diện. Tuỳ điều kiện của mỗi địa phương mà trồng nhiều lúa và nhiều hoa màu để bảo đảm lương thực cho nhân dân và nghĩa vụ đối với Nhà nước… Phải kết hợp chặt chẽ: công nghiệp địa phương, thủ công nghiệp và nông nghiệp; sản xuất và chế biến, thương nghiệp và giao thông…”[6].
Sự phát triển của toàn diện của nông nghiệp được Người ví như sự vận động của “guồng máy” nghĩa là “từ lúc chọn giống đến ngày đưa thóc vào kho, mọi công việc phải ăn khớp, nhịp nhàng với nhau, thì kết quả mới tăng”[7]. Đối với nông nghiệp được Người tóm lược thành “đủ nước. Nhiều phân. Giống tốt. Cày sâu bừa kỹ. Cấy dày đúng mức. Phòng chuật, trừ sâu. Chăm nom ruộng đất. Cải tiến nông cụ. Đó là tám bộ phận chính trong guồng máy nông nghiệp, nó quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, cho nên thiết một bộ phận nào cũng không được”[8]. Người lưu ý, nông nghiệp phải coi trọng 3 điều: Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa.
Để phát triển nông nghiệp toàn diện, Hồ Chí Minh nhắc nhở trong nông nghiệp phải có kể hoạch, thể hiện tính chủ động, có tầm nhìn xa: “Biện pháp là phải chuẩn bị đủ mạ, đủ phân, đủ nước, nhất là phải đủ nước”; “Phải có mạ đầy đủ. Phải chuẩn bị giống tốt cho vụ chiêm năm sau, phải cải tiến kỹ thuật”; “Làm chỗ nào, làm cái gì, thì phải làm thật kỹ, phải săn sóc luôn”[9] và phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Lãnh đạo và kế hoạch phải thật sát với thực tế.
Cùng với kế hoạch, tầm nhìn, phải thực hiện nhiều giải pháp, các giải pháp phải phù hợp với nhiệm vụ cách mạng và điều kiện cụ thể để phát triển nông nghiệp. Người nhiều lần nhấn mạnh, quan trọng nhất trong đời sống của nhân dân là vấn đề ăn. Để giải quyết tốt vấn đề ăn thì sản xuất lương thực phải dồi dào. Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp. máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu... đó là con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp hoá nước nhà. Muốn như vậy, thì công nghiệp phải giúp cho nông nghiệp có nhiều máy làm thuỷ lợi, máy cày, máy bừa, nhiều phân hoá học, v.v.. Cùng với đó, phải từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp bằng các hình thức tổ đổi công, hợp tác xã… nhằm thực hiện liên kết, tạo sức mạnh tập thể trong phát triển nông nghiệp.
Như vậy, qua các tác phẩm, bài nói và bài viết của Hồ Chí Minh, có thể khẳng định một cách ngắn gọn quan niệm của Người về một nền nông nghiệp toàn diện phải là nền nông nghiệp phát triển. Phát triển nông nghiệp toàn diện không phải là một nền kinh tế thuần nông, không phải theo lối manh mún, tự cấp, tự túc, mà trên cơ sở có quy hoạch của một nền sản xuất hàng hóa phát triển theo quy mô lớn, đó là một nền nông nghiệp bền vững hiện đại, với sự phong phú về ngành nghề, đa dạng hóa về sản phẩm có cơ cấu kinh tế nội bộ ngành hợp lý, cân đối, hài hòa, bổ sung cho nhau cùng phát triển mạnh mẽ, hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
ThS. Nguyễn Thị Nga, Khoa Lý luận cơ sở
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2011, t.4, tr.246.