Ths. Bùi Quang Toản
TUV, Bí Thư Đảng ủy, Hiệu Trưởng Trường Chính trị tỉnh
Hải Dương
Thực hiện Chương trình làm việc toàn
khoá (từ ngày 11/5 đến ngày 14/5/2020), Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá XII đã được tổ chức trọng thể tại Thủ đô Hà Nội.
Tham dự Hội nghị có 207 đại biểu
gồm: 172 đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 20 đồng chí Ủy viên dự
khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng và 15 đồng chí Phó Chủ nhiệm, Ủy viên Ủy
ban Kiểm tra Trung ương khoá XII.
Sau khi Bộ Chính trị trình bày các báo cáo, các đại biểu đã tiến hành
nghiên cứu, thảo luận, cho ý kiến bổ sung; Bộ Chính trị đã họp, thảo luận, tiếp
thu, giải trình ý kiến của Trung ương và
những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Ban Chấp hành Trung ương đã thống
nhất cao, thông qua Nghị quyết Hội nghị về
các nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất,
phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII;
Thứ hai, tiêu chuẩn,
tiêu chí, số lượng và việc phân bổ đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng;
Thứ ba, phương hướng
bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021 - 2026;
Thứ tư, Báo cáo
kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2019; công tác
cán bộ.
Thứ năm, Ban
Chấp hành Trung ương đã xem xét, cho ý kiến vào các văn bản: Báo cáo các công
việc quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ Hội nghị Trung ương 11 đến Hội
nghị Trung ương 12 khoá XII;
Thứ sáu, Báo
cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng; thực hiện
nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Ủy ban kiểm tra các cấp năm 2019.
I. VỀ PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG TÁC NHÂN SỰ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
KHOÁ XIII
1. Về tổng kết công tác nhân sự Đại hội XII
* Những kết quả nổi
bật
(1) Công tác chuẩn bị nhân sự Đại
hội XII được tiến hành chặt chẽ, thận trọng, đúng quy định; bảo đảm sự lãnh đạo
toàn diện của Ban Chấp hành Trung ương.
(2) Bộ Chính trị, Ban Bí thư; đã cơ
bản kế thừa những ưu điểm và kinh nghiệm của công tác nhân sự một số nhiệm kỳ
trước đây; đồng thời, bám sát thực tiễn, khả năng đáp ứng của đội ngũ cán bộ
cấp chiến lược và cách làm phù hợp, đã góp phần vào sự thành công rất tốt đẹp
của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
(3) Việc bầu được Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương cơ bản bảo đảm
cơ cấu, số lượng, chất lượng, có sự hài hoà, hợp lý giữa kế thừa, ổn định và
đổi mới, phát triển, nhất là trong tình hình, bối cảnh có những vấn đềphức tạp,
nhạy cảm không dễ giải quyết, đã được cán bộ, đảng viên, nhân dân ghi nhận,
đánh giá cao.
(4) Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư từ đầu nhiệm kỳ đến nay đã lãnh đạo thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên tất cả các lĩnh vực; góp phần quan
trọng nâng cao vai trò, vị thế, tiềm lực, uy tín của đất nước và củng cố, tăng
cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
* Những hạn chế, bất cập cần khắc
phục
(1) Tiêu chuẩn Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tính lượng hoá chưa cao, tiêu chí đặc
thù để phân biệt giữa các nhóm chức danh chưa thật rõ.
(2) Việc xác định, phân bổ số lượng Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở một số nơi chưa thực sự sát với yêu cầu
nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị; chưa có biện pháp hiệu quả
để bảo đảm cơ cấu Ban Chấp hành Trung ương đối với những lĩnh vực quan trọng
hoặc còn thiếu, một số trường hợp chưa thực sự hài hoà.
(3) Còn có sự khác nhau về độ tuổi
tái cử giữa các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng công tác ở địa
phương với các đồng chí công tác ở các cơ quan Trung ương, làm phát sinh tâm tư
và khó khăn trong công tác bố trí cán bộ, nhất là các đồng chí không đủ tuổi
tái cử cấp ủy địa phương.
(4) Quy trình giới thiệu nhân sự Ban
Chấp hành Trung ương có điểm còn thiếu chặt chẽ; chưa phát huy đầy đủ vai trò,
trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng trong việc giới thiệu nhân sự tham gia ứng
cử Ban Chấp hành Trung ương; chưa quy định rõ trách nhiệm của người đề cử tại
Đại hội và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất nên có trường hợp
không đủ tiêu chuẩn, điều kiện vẫn được đề cử vào danh sách bầu cử, cá biệt có
trường hợp đã trúng cử.
(5) Công tác thẩm định đối với một
số nhân sự thiếu chặt chẽ, chưa khách quan, nhất là nhân sự được đề cử tại Đại
hội và Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá XII… Cá biệt còn để “lọt”
cả người không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, không có trong phương án nhân sự vào
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị.
(6) Hiện tượng vận động, tranh thủ
phiếu giới thiệu, phiếu bầu còn diễn ra phức tạp, ảnh hưởng không tốt đến sự
tôn nghiêm của Đại hội và quá trình lựa chọn nhân sự, kêt quả bầu cử.
(7) Việc thực hiện quy chế, nội quy
của Đại hội chưa nghiêm túc; tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, sự
tự giác của một số đại biểu còn chưa cao.
* Nguyên nhân của
những hạn chế, bất cập trên:
(1) Do
nhận thức tầm quan trọng, ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm chính trị của
một số cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, người đứng đầu các cấp về công
tác nhân sự đại hội chưa thực sự đầy đủ, sâu sắc, toàn diện.
(2) Hệ thống các quy chế, quy định
về công tác cán bộ, bầu cử còn thiếu chặt chẽ, đồng bộ, nhất là quy định trong
việc giới thiệu, đề cử,nhận đề cử tại Đại hội; chưa có quy định, chế tài về
kiểm soát quyền lực trongcông tác cán bộ và biện pháp cụ thể để phát hiện,
phòng, chống, ngăn chặn chạychức, chạy quyền một cách có hiệu quả.
(3) Đánh giá cán bộ vẫn là khâu
khó,còn hạn chế, nhưng chậm được khắc phục; thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ,
hiệuquả để thấm định, rà soát, “sàng lọc” những người không còn đủ phẩm chất năng
lực, uy tín và phát hiện, giới thiệu những cán bộ thực sự có đức, có tài tham
gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII.
* Những kinh nghiệm
(1) Phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc
và thực hiện nghiêm các quan điểm, nguyên tắc, định hướng, tin tưởng chỉ đạo về công
tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạotrực tiếp,
thường xuyên, chặt chẽ, toàn diện, sâu sát của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, Tiểu ban Nhân sự, các cấp ủy, tổ chức đảng; của đồng chí
Tổng Bí thư, người đứng đầu các cấp trong suốt quá trình chuẩn bị nhân sự và tổ
chức Đại hội. Đồng thời, xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, tiêu chuẩn, điều kiện
và kiên trì, nhất quán trong tổ chức thực hiện.
(2) Xây dựng Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và lựa chọn nhân sự các chức danh lãnh đạo chủ
chốt của Đảng, Nhà nước là công việc rất hệ trọng, quyết định vận mệnh của
Đảng, tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước. Do vậy, phải tiến hành
một cách khoa học, bài bản, chặt chẽ, thận trọng, khách quan, hiệu quả, làm đến
đâu chắc đến đó, đồng thời, gắn kết chặt chẽ với yêu cầu lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng.
(3) Phải có quy chế, quy định chặt
chẽ, đồng bộ, tổng thể, liên thông, bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan,
minh bạch. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ
quan tham mưu, người đứng đầu và cá nhân liên quan trong công tác cán bộ; kiên
quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng chạy chức, chạy
quyền. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tiểu ban Nhân sự và
Đoàn Chủ tịch Đại hội phải duy trì, bảo đảm sự lãnh đạo thường xuyên, liên tục
về công tác nhân sự cho đến khi bầu được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư khoá mới.
(4) Trong quá trình chuẩn bị và thực
hiện, phải tăng cường và bảo đảm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, phát huy dân chủ, giữ đúng nguyên tắc, thực hiện nghiêm quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và đề cao sự gương mẫu, trách nhiệm, bản lĩnh
chính trị của người đứng đầu, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất, đặt lợi ích của
Đảng, của quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết. Đồng thời, bám sát thực
tiễn để có phương pháp lựa chọn nhân sự phù hợp, hiệu quả. Xây dựng phương án
nhân sự gắn liền với việc dự kiến điều động, luân chuyển, bố trí, phân công các
đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng trước và sau Đại hội.
(5) Đối với những việc khó, phức tạp, nhạy cảm
thì càng phải giữ vững nguyên tắc, phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể, đề cao
trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu và quyết định theo đa số. Chủ động
nắm chắc tình hình, dự báo được những vấn đề có thể phát sinh đối với nhân sự
để có giải pháp xử lý kịp thời, phù hợp, hiệu quả.
2. Về phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương
khoá XIII
* Về quan điểm chỉ
đạo, nguyên tắc xây dựng Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII:
(1) Phải bảo đảm sự lãnh đạo trực
tiếp, toàn diện, thường xuyên, liên tục, chặt chẽ của Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp Ủy, tổ chức đảng, của đồng chí Tổng Bí thư và
người đứng đầu các cấp trong suốt quá trình chuẩn bị nhân sự trước, trong và
sau Đại hội... Mở rộng dân chủ nhưng phải có tập trung, phát huy dân chủ nhưng
phải có sự lãnh đạo. Thực hiện nghiêm, hiệu quả Quy định của Bộ Chính trị về
kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền trong
quá trình chuẩn bị nhân sự và tổ chức Đại hội.
(2) Công tác nhân sự phải tiến hành
một cách khoa học, bài bản, khách quan, toàn diện, hiệu quả theo phương châm:
Làm từng bước, từng việc, từng khâu, từng nhóm chức danh từ thấp đến cao, bảo
đảm thận trọng, chặt chẽ, kỹ lưỡng, làm đến đâu chắc đến đó. Xác định rõ thẩm
quyên, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị,
các cơ quan tham mưu và cá nhân có liên quan trong việc đề xuất, thẩm định,
thẩm tra, kết luận về những nội dung liên quan đến nhân sự Ban Chấp hành Trung
ương.
(3) Phải xử lý hài hoà, hợp lý giữa
tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa kế thừa, ổn định và đổi mới, phát triển; giữa tính
phổ biến và tính đặc thù; giữa chuyên môn đào tạo và sở trường, năng lực thực
tiễn; giữa kinh nghiệm công tác và chiều hướng phát triển; trong đó, đặc biệt
đề cao chất lượng, hiệu quả; bảo đảm phù hợp về cơ cấu, độ tuổi, giới tính, dân
tộc, vùng, miền..., nhưng không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn. Kiên quyết
không để lọt những người không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, không xứng đáng, không
trúng cử cấp ủy cấp dưới vào Ban Chấp hành Trung ương, nhưng cũng không bỏ “sót”
những đồng chí thực sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và trong nhân dân.
(4) Đánh giá cán bộ phải xuyên suốt,
liên tục, nhiều chiều, bằng
“sản phẩm”, gắn kết chặt chẽ kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa
phương, cơ quan, đơn vị với hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của người đứng
đầu và so sánh với các chức danh tương đương; bảo đảm dân chủ, công tâm, khách
quan, minh bạch. Có cơ chế phối hợp thẩm định, rà soát hiệu quả, nhất là đối
với những nhân sự còn có ý kiến khác nhau hoặc có vấn đề cần phải thẩm tra, làm
rõ, kết luận.
(5) Phải tỉnh táo, đề cao cảnh giác,
chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi, đập tan mọi âm
mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động,
phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, tung tin giả, tin xấu độc gây hoang mang,
nghi ngờ, chia rẽ nội bộ và tác động tiêu cực đến công tác nhân sự Đại hội XIII
của Đảng.
(6) Các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất
là người đứng đầu các cấp và các đồng chí lãnh đạo có liên quan phải chỉ đạo,
có biện pháp đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả, xử lý nghiêm những cán
bộ, đảng viên có biểu hiện lợi dụng vị trí, chức vụ... để có hành vi và việc
làm không đúng nguyên tắc, thiếu tính xây dựng, không minh bạch, khách quan
hoặc đưa những thông tin không chính thức, bịa đặt, “lượm lặt”, không đúng sự
thật, thiếu chính xác, chưa được xác minh, kiểm chứng, kết luận liên quan đến
nhân sự và công tác nhân sự.
* Về mục tiêu, yêu cầu xây dựng Ban Chấp hành
Trung ương khoá XIII.
Ban Chấp
hành Trung ương khoá XIII phải là một tập thể thật sự đoàn kết, trong sạch,
vững mạnh, thống nhất ý chí và hành động, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
phẩm chất đạo đức trong sáng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; có tầm nhìn chiến lược, có trí tuệ, tư duy đổi mới, sáng tạo; tiêu biểu
cho toàn Đảng về tính chiến đấu, tính kỷ luật; gắn bó mật thiết với nhân dân,
biết lắng nghe, nghiêm túc tự phê bình và phê bình, quy tụ được sự đoàn kết,
thông nhất trong Đảng và trong nhân dân; đủ uy tín, năng lực, sức khoẻ để lãnh
đạo đất nước trong giai đoạn phát triển mới. Trên tinh thần đó, Ban Chấp hành
Trung ương xác định 6 yêu cầu:
(1) Xây dựng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XIII,
nhất là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước phải là một tập thể
trong sạch, vững mạnh, thật sựđoàn kêt, thông nhất cao về ý chí và hành động. Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII phải là những đồng chí tiêu biểu
về phẩm chất đạo đức, năng lực, trí tuệ và hành động, có bản lĩnh chính trị
vững vàng; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối
đổi mới của Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân.
(2) Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XIII cần có số
lượng và cơ cấu hợp lý, nhất là ở những vị trí, địa bàn, lĩnh vực công tác quan
trọng. Bảo đảm sự kế thừa, ổn định, đổi mới, phát triển và có sự chuyến tiếp
vững vàng giữa các thế hệ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng.
(3) Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên
Ban Bí thư khoá XIII phải là những đồng chí tiêu biểu cho toàn Đảng về tính
tiền phong, gương mẫu, tính xây dựng, tính chiến đấu, tính hành động, tính kỷ
luật, tính nhân văn; dám hy sinh vì sự nghiệp cao cả của Đảng, vì lợi ích của nhân
dân; có phẩm chất đạo đức trong sáng, năng lực nổi trội và có uy tín; có tư duy
đổi mới, sáng tạo, có đam mê, tâm huyết, trách nhiệm, có tầm nhìn chiến lược,
lý luận chính trị sắc bén; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi
với làm; có khả năng quy tụ, đoàn kết, thống nhất và huy động sức mạnh tổng
hợp; không tham nhũng, tiêu cực, lãng phí và kiên quyết chống tham nhũng, tiêu
cực, lãng phí; có thành tích, kết quả, “sản phẩm” cụ thể trong quátrình
công tác; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được phân công.
(4) Việc giới thiệu, lựa chọn nhân
sự phải căn cứ vào tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định và nói chung dựa trên cơ
sở quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; gắn kết chặt
chẽ với việc xây dựng phương án sắp xếp, bố trí khoa học, hợp lý, “đúng người,
đúng việc” đối với nhân sự lãnh đạo các cơ quan Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2021 -
2026 và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội nhiệm kỳ tới.
(5) Thực hiện tốt phương châm: Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, đi đôi với
phát huy, mở rộng dân chủ; bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao. Kế thừa và phát
huy những bài học quý, kinh nghiệm hay, nội dung còn phù họp; đồng thời, chỉ rõ
và kiên quyết khắc phục những hạn chế, bất cập, sơhở, khuyết điểm qua thực hiện
công tác nhân sự một nhiệm kỳ Đại hội vừa qua.
(6) Phải có biện pháp hiệu quả để
chấm dứt ngay tình trạng vận động, biếu xén, “quà cáp”, “chạy phiếu bầu”, “chạy
phiếu giới thiệu, đề cử”... Đồng thời, đề cao tinh thần cảnh giác, có giải pháp
hiệu quả để đấu tranh chống các quan điểm sai trái, hoạt động tuyên truyền
chống phá của các thế lực thù địch, đặc biệt là đối với công tác nhân sự cấp
cao của Đảng, Nhà nước.
* Về tiêu chuẩn Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương khoá XIII
Ban Chấp hành Trung ương nhất trí
thực hiện theo Quy định số 214-QĐ/TW, ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị; đồng
thời, có điều chỉnh, bổ sung và cụ thể hoá một số nội dung tiêu chuẩn cho phù
hợp với tình hình, yêu cầu thực tế.
Ban Chấp hành Trung ương nhấn mạnh:
(1) Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải là những đồng chí tiêu biểu
của Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác. Có ý
thức trách nhiệm cao, kiến thức toàn diện; tích cực tham gia thảo luận, đóng
góp, hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành
Trung ương. Có năng lực tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm
vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới ở lĩnh vực, địa
bàn công tác được phân công quản lý, phụ trách. Có năng lực dự báo, xử lý, ứng
phó kịp thời, hiệu quả những tình huống đột xuất, bất ngờ; có khả năng làm việc
độc lập. Có tố chất, năng lực lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược; có hoài bão,
khát vọng đổi mới vì dân, vì nước. Đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các
chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp dưới trực tiếp và tương đương.
Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương phải là những cán bộ trẻ, cơ bản đáp ứng được tiêu chuẩn
của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; qua thực tiễn công tác thể hiện có năng
lực nổi trội, có triển vọng phát triển về tố chất lãnh đạo, quản lý cấp chiến
lược; được quy hoạch chức danh Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và lãnh đạo chủ
chốt tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương, ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung
ương nhiệm kỳ 2021 - 2026. Đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức
vụ: Bí thư quận ủy, huyện ủy, giám đốc sở, ban, ngành, cục trưởng, vụ trưởng,
trưởng ban và tương đương trở lên trong thời gian ít nhất là 3 năm (tính đến
thời điểm tháng 01/2021).
(2) Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải là những đồng chí thật sự
tiêu biểu, mẫu mực của Ban Chấp hành Trung ương về bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức, trí tuệ, ý chí chiến đấu, năng lực lãnh đạo, quản lý, ý thức tổ
chức kỷ luật. Có tầm nhìn tư duy chiến lược, có khả năng phân tích, dự báo, tổng
hợp, đề xuất những vấn đề mới một cách đúng đắn; có trình độ hiểu biết sâu sắc
về lý luận chính trị, biết phát hiện và sử dụng người có đức, có tài.
- Ủy viên chính thức Ban Chấp hành
Trung ương trọn một nhiệm kỳ trở lên; đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở
các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, trưởng hoặc phó các ban, bộ, ngành, Mặt
trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và tương đương; còn độ
tuổi trong quy định và đủ sức khoẻ để đảm đương nhiệm vụ. Trường hợp Ủy viên Bộ
Chính trị, Ban Bí thư công tác trong quân đội thì phải kinh qua chức vụ chủ trì
cấp quân khu và tương đương.
* Không để lọt vào Ban Chấp hành
Trung ương những người có một trong các khuyết điểm sau:
(1) Bản lĩnh chính trị không vững
vàng; không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng; có biểu hiện cơ hội chính
trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, tham nhũng, quan liêu, cục bộ,
vận động cá nhân, phe cánh, lợi ích nhóm; thiếu chính kiến, thấy đúng không bảo
vệ, thấy sai không đấu tranh.
(2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán, không công bằng, công minh trong đánh giá,
sử dụng cán bộ, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình.
(3) Để nội bộ mất đoàn kết nghiêm
trọng hoặc để xảy ra tham nhũng, thất thoát, vụ việc tiêu cực lớn ở địa phương,
cơ quan, đơn vị.
(4) Không chịu nghiên cứu học hỏi;
bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với
làm.
(5) Ý thức kỷ luật kém, không chấp
hành sự điều động, phân công của tổ chức, uy tín thấp.
(6) Kê khai tài sản không trung
thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác nhau
không giải trình rõ được nguồn gốc; bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống
thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính.
(7) Vi phạm quy định về lịch sử chính
trị hoặc chính trị hiện nay.
* Về số lượng và cơ cấu:
- Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, Ban
Chấp hành Trung ương cần có số lượng và cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo
toàn diện, có tính kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển, cần tăng số lượng Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương ở các vị trí, địa bàn, lĩnh vực công tác trọng
yếu; chú ý tăng thêm tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu
số. Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII cần có 3 độ tuổi (dưới 50; từ 50 - 60 và
từ 61 trở lên). Phấn đấu dưới 50 tuổi khoảng từ 15 - 20%; từ 50 - 60 tuổi khoảng
trên, dưới 70%; từ 61 tuổi trở lên khoảng trên, dưới 10%.
- Trường hợp “đặc biệt” nào cần
thiết phải tái cử Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Bộ Chính
trị sẽ căn cứ vào tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể để cân nhắc, xem xét thận trọng,
kỹ lưỡng, nhiều mặt, trên cơ sở sự nổi trội về phẩm chất chính trị, năng lực
thực tiễn, uy tín trong Đảng, trong nhân dân và yêu cầu, đòi hỏi của vị trí,
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, lĩnh vực công tác trọng yếu của Đảng khoá XIII,
trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, quyết định việc đề cử.
- Ban Chấp hành Trung ương đã thống
nhất trình Đại hội XIII: số lượng Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII
khoảng 200 đồng chí, trong đó khoảng 180 Ủy viên chính thức, 20 Ủy viên dự
khuyết; Bộ Chính trị khoảng 17 - 19 đồng chí, Ban Bí thư Trung ương Đảng khoảng
11 - 13 đồng chí.
* Về phương pháp và quy trình giới thiệu, lựa chọn nhân sự
Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII
- Cơ bản thực hiện quy trình 5 bước
theo Quy định số 105-QD/TW, ngày 19/12/2017 của Bộ Chính trị và quy trình nhân
sự cấp ủy được quy định trong Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính
trị. Quy trình được cụ thể hoá theo 3 nhóm đối tượng:
(1) Các đồng chí tái cử.
(2) Các đồng chí lần đầu tham gia
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương;
các chức danh lãnh đạo chủ chốt khoá XIII.
(3) Đối với trường hợp “đặc biệt”,
Bộ Chính trị sẽ căn cứ vào tình hình thực tế để có phương pháp, cách làm phù
hợp, chặt chẽ và thực hiện vào thời điểm thích hợp. Thực hiện quy trình giới
thiệu các đồng chí tái cử trước, tiếp đó tiến hành giới thiệu các đồng chí lần
đầu tham gia, giới thiệu trường hợp “đặc biệt” được thực hiện sau cùng. Giới
thiệu nhân sự Ban Chấp hành Trung ương trước, tiếp đến là giới thiệu nhân sự Bộ
Chính trị, Ban Bí thư; giới thiệu các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà
nước sau cùng.
- Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ
Chính trị căn cứ ý kiến thảo luận của Trung ương và Báo cáo tiếp thu giải trình
của Bộ Chính trị, hoàn chỉnh để ban hành Phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp
hành Trung ương khoá XIII; chỉ đạo Tiểu ban Nhân sự và các cơ quan liên quan
chuẩn bị dự kiến nhân sự giới thiệu
tham gia Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII.
II. VỀ SỐ LƯỢNG VÀ VIỆC PHÂN BỔ ĐẠI BIỂU DỰ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU
TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG
Ban Chấp hành Trung ương nhất trí
cao với những nguyên tắc, căn cứ
phân bổ đại biểu và quyết định tổng số đại biểu dự Đại hội XIII của Đảng là
1.590 đại biểu, phân bổ cho các đảng bộ trực thuộc Trung ương theo 3 tiêu chí cơ
bản sau:
(1) Phân bổ đại biểu theo đầu mối
đảng bộ trực thuộc Trung ương: 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương, mỗi đảng bộ
được phân bổ 13 đại biểu.
(2) Phân bổ đại biểu theo số lượng
đảng viên có đến ngày 31/3/2020: Có 12.000
đảng viên được phân bổ 1 đại
biểu, nếu còn dư từ 6.001 đảng viên
trở lên được thêm 1 đại biểu.
(3) Phân bổ đại biểu theo vị trí
quan trọng: Đảng bộ TP. Hà Nội được phân bổ thêm 10 đại biểu, Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh được phân bổ thêm 5 đại biểu; Đảng bộ Quân đội, Đảng bộ
Công an Trung ương, mỗi đảng bộ được phân bổ thêm 8 đại biểu; Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương được phân bổ thêm 39 đại biểu; Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung
ương được phân bổ thêm 8 đại biểu.
Ban Chấp hành Trung ương quyết định chỉ định 15 đại biểu là bí thư đảng ủy, đại sứ Việt Nam tại các địa bàn lĩnh
vực quan trọng về đối ngoại, kinh tế; có đông đảng viên, kiều bào.
III. VỀ PHƯƠNG HƯỚNG BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHOÁ XV VÀ ĐẠI
BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2021 - 2026
1. Về mục đích, yêu cầu của cuộc bầu cử
Thứ nhất, phải bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo
của các cấp ủy đảng để cuộc bầu cử được tiến hành đồng bộ, dân chủ, đúng pháp
luật, an toàn, tiết kiệm và thật sự là ngày hội lớn của toàn dân.
Thứ hai, thực hiện
tốt chủ trương của Đảng về bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ trong các cơ quan nhà
nước ở Trung ương và địa phương; gắn kết quả nhân sự đại hội đảng các cấp và
quy hoạch cán bộ với công tác chuẩn bị nhân sự đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp; công tác bầu cử với yêu cầu xây dựng và củng cố tổ chức
bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước giai đoạn 2021 - 2026.
Thứ ba, công tác
chuẩn bị nhân sự giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân phải xử lý hài hoà giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, giữa kế thừa, ổn định, đổi
mới và phát triển, trong đó đặc biệt đề cao chất lượng, hiệu quả, tiêu biểu cho
cơ cấu, giới tính, dân tộc, trẻ tuổi,... trong đó lấy tiêu chuẩn, chất lượng
đại biểu làm trọng tâm, không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn.
Thứ tư, kiên quyết không giới thiệu ứng
cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hộiđồng nhân dân các cấp đối với những người
không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn; nhất là những người đã phạm sai lầm hoặc
sa sút về phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, hống hách, gia
trưởng, nịnh trên, nạt dưới, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của
Đảng, Nhà nước.
2. Về ngày bầu cử đại biểu Quốc hội
khoá XV, đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 dự kiến ngày 23 tháng 5 năm 2021
3. Tiêu chuẩn người ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
(1) Trung
thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
(2) Có một
quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.
(3) Có phẩm chất đạo đức tốt, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh,
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách
dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
(4) Có trình độ văn hoá, chuyên môn,
đủ năng lực, sức khoẻ, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại
biểu Quốc hội.
(5) Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
Đối với đại biểu Quốc hội chuyên trách,
ngoài tiêu chuẩn chung của đại biểu Quốc hội còn phải đáp ứng các yêu cầu sau:
(1) Có trình độ đại học trở lên,
năng lực phân tích, hoạch định chính sách và khả năng tổ chức công việc, có
chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn phù hợp với vị trí dự kiến. Có quan điểm,
lập trường chính trị vững vàng, có ý thức trách nhiệm trong hoạt động của Quốc
hội.
(2) Nếu ứng cử làm đại biểu Quốc hội
hoạt động chuyên trách ở Trung ương thì phải đáp ứng một trong các yêu cầu sau:
-
Đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm
vụ ở chức vụ từ vụ trưởng và tương đương, chức vụ giám đốc sở, ngành và tương
đương trở lên và đã được quy hoạch đại biểu Quốc hội chuyên trách; nếu chưa
được quy hoạch vào đại biểu Quốc hội chuyên trách thì phải được quy hoạch giữ
chức vụ từ thứ trưởng và tương đương trở lên.
- Nếu thuộc
khối Quân đội, Công an thì phải kinh qua và hoàn thành tốt
nhiệm vụ của chức danh cục trưởng, vụ trưởng và tương đương, chỉ huy trưởng
bộ chỉ huy quân sự tỉnh, chỉ huy trưởng bộ đội biên phòng tỉnh, giám đốc công
an tỉnh và tương đương trở lên.
(3) Nếu ứng
cử làm đại biểu Quốc hội chuyên trách ở địa phương: Phải là tỉnh ủy viên đang
giữ chức vụ giám đốc sở hoặc tương đương trở lên, nói chung có quy hoạch một
trong các chức danh sau: Ủy viên ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, phó chủ tịch
Hội đồng nhân dân, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương hoặc tương đương trở lên; có khả năng đóng góp vào hoạt động của
Quốc hội.
Về độ tuổi:
Ban Chấp
hành Trung ương thống nhất, để bảo đảm tính nhất quán, liên thông, đồng bộ
trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, sự ổn định trong công
tác cán bộ, thực hiện tính tuổi theo Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 cùa Bộ
Chính trị và Hướng dẫn số 26-HD/BTCTW, ngày 18/10/2019 của Ban Tổ chức Trung
ương hướng dẫn một số nội dung Chỉ thị số 35-CT/TW, đối với đại biểu Quốc hội
chuyên trách ở Trung ương (trừ các đồng chí thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc
hội là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị): “độ tuổi
tái cử chính quyền ít nhất là 30 tháng và thời điểm tính độ tuổi tái cử chính
quyền là tháng 5/2021”, tính đến tháng 5/2021 (nam sinh từ tháng 11/1963, nữ
sinh từ tháng 11/1968 trở lại đây).
Trường hợp đại biểu nữ giữ chức vụ
được nghỉ hưu ở tuổi cao hơn theo Nghị định số53/2015/NĐ-CP, ngày 29/5/2015 của
Chính phủ thì tiếp tục tái cử nếu sinh từ tháng 5/1966 trở lại đây.
Người lần đầu ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân chuyên trách ở các cấp phải đủ tuổi tham gia hai nhiệm kỳ Hội
đồng nhân dân trở lên hoặc ít nhất trọn một nhiệm kỳ tính đến tháng 5/2021.
4. Số lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
-
Tổng số đại biểu Quốc hội khoá XV dự
kiến là 500 người như quy định của Luật và được phân bổ: số lượng đại biểu Quốc
hội ở các cơ quan Trung ương là 207 (41,4%); số lượng đại biểu Quốc hội ở địa
phương là 293 đại biểu (58,6%).
-
Tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân
chuyên trách cả nước ở 3 cấp tối đa là 15.841
đại biểu, gồm: Tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách cấp tỉnh
khoảng 606 đại biểu; tổng số đại
biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách cấp huyện khoảng 4.798 người; tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách ở cấp
xã là 10.437 đại biểu.
IV. VỀ BÁO CÁO KIỂM ĐIỂM SỰ LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA BỘ CHÍNH
TRỊ, BAN BÍ THƯ NĂM 2019.
Năm 2019 và
nhìn lại từ đầu nhiệm kỳ khoá XII, Ban Chấp hành Trung ương khẳng định, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư là tập thể đoàn kết, thống nhất, gương mẫu, bản lĩnh, trí
tuệ; đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các lĩnh vực và đã đạt được những
kết quả to lớn, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, cũng như
tạo tiền đề cho những năm tiếp theo. Nổi bật là:
(1) Tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện đường lối, thể chế, nhất là thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xử lý và giải quyết có hiệu quả những
khó khăn, vướng mắc, hạn chế, yếu kém từ nhiều năm trước của nền kinh tế; giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô và đạt mức tăng trưởng cao trên 7%. Lạm phát được
kiểm soát ở mức thấp. Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. So
với đầu nhiệm kỳ, tỉ lệ nợ công/GDP ngày càng giảm, dự trữ ngoại hối tăng cao
và ở ngưỡng an toàn. Nền kinh tế giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác khoáng
sản, tài nguyên. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân
dân được cải thiện và nâng cao.
(2) Những
chủ trương, quyết sách lớn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về quốc phòng, an ninh,
đối ngoại thể hiện sự phát triển mới ngày càng toàn diện trong tư duy lý luận
của Đảng trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, phù hợp với diễn biến
tình hình và yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho đất nước.Công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng tiếp tục được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả tốt. Công tác phòng, chống tham
nhũng tiếp tục đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được quan tâm. Bước
đầu đã ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống... Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên được nâng
lên; sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng được tăng cường, góp phần xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin của cán
bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
(3) Trung
ương để có giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ và hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong thời gian tới.
V. VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
- Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã bầu bổ sung 2 đồng chí giữ chức Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khoá XII,
gồm: Đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ
tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Kon Tum và đồng chí Trần Thị Hiền, Vụ trưởng Vụ
Tổng hợp, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
- Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã xem xét, quyết định thi hành kỷ luật đồng chí Đô đốc
Nguyễn Văn Hiến, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc
phòng bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng, với số phiếu 100%.
VI. Theo Quy
chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khoá XII,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xem xét, thống nhất cao với Báo cáo các công
việc quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ sau Hội nghị Trung ương 11 đến
Hội nghị Trung ương 12; Báo cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành
kỷ luật đảng; thực hiện nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Ủy ban kiểm
tra các cấp năm 2019.