Toàn cảnh Đại hội. Ảnh: TTXVN
I- VỀ QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ CÁC VĂN KIỆN
Nhận
thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Đại hội XIII, Bộ Chính trị Trung
ương Đảng đã đề ra yêu cầu và có kế hoạch chuẩn bị cho Đại hội XIII rất
sớm. Ngay từ Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá XII
(tháng 10-2018) đã quyết định thành lập các Tiểu ban chuẩn bị văn kiện
và công tác nhân sự. Trong đó có 3 Tiểu ban liên quan đến việc chuẩn bị
các văn kiện: Tiểu ban Văn kiện do đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước làm Trưởng Tiểu ban; Tiểu ban Kinh tế - Xã hội do
đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ làm
Trưởng Tiểu ban; Tiểu ban Điều lệ Đảng do đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy
viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương
làm Trưởng Tiểu ban. Để giúp việc cho các Tiểu ban, Ban Bí thư đã quyết
định thành lập các Tổ Biên tập và Bộ phận giúp việc. Sau khi được thành
lập, dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, các Tiểu ban đã tích cực, khẩn
trương xây dựng chương trình, kế hoạch làm việc; tiến hành tổ chức
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và khảo sát thực tế. Trong hơn 2
năm qua, các Tiểu ban đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nghiên cứu,
các bộ, ban, ngành ở Trung ương và các cấp ủy, chính quyền địa phương tổ
chức gần 60 cuộc hội nghị, hội thảo, toạ đàm và thành lập 50 đoàn đi
khảo sát thực tế, làm việc, xin ý kiến các đồng chí nguyên lãnh đạo cấp
cao của Đảng và Nhà nước, tham vấn ý kiến các chuyên gia; đã tổ chức một
số cuộc toạ đàm với Ngân hàng Thế giới và một số tổ chức quốc tế; đã tổ
chức 2 đoàn đi khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài. Các cơ quan
nghiên cứu lý luận, khoa học đã gửi khoảng 80 báo cáo tư vấn, báo cáo
kiến nghị cho các Tiểu ban. Nhiều đồng chí cán bộ lão thành, các nhà
khoa học có tâm huyết cũng đã gửi thư, bài góp ý. Các báo cáo đã được
nghiên cứu, chắt lọc, tiếp thu những ý kiến hợp lý, xác đáng để đưa vào
các dự thảo văn kiện.
Các
Tiểu ban đã tiến hành 20 phiên họp để thảo luận, thông qua Đề cương và
các dự thảo văn kiện, đồng thời thường xuyên có sự phối hợp giữa các
Tiểu ban, Tổ Biên tập để bảo đảm sự thống nhất về nội dung giữa các văn
kiện, trong đó Báo cáo chính trị là trung tâm. Bộ Chính trị đã họp nhiều
lần để cho ý kiến hoàn thiện Đề cương và các dự thảo văn kiện trình xin
ý kiến Ban Chấp hành Trung ương tại các Hội nghị Trung ương 10, 11, 14
và 15.
Các
dự thảo Báo cáo đã được chỉnh lý, sửa chữa nhiều lần (Báo cáo chính trị
khoảng 30 lần) và được gửi xin ý kiến rộng rãi của các đại biểu Quốc
hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều tổ chức, cơ
quan, đoàn thể... Bộ Chính trị đã quyết định cho công bố công khai toàn
văn các dự thảo Báo cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để lắng
nghe ý kiến rộng rãi của nhân dân. Đã có hàng triệu lượt ý kiến đóng
góp vào dự thảo các văn kiện và được tổng hợp gửi về Trung ương. Tổng
hợp góp ý của đại hội đảng các cấp từ cấp cơ sở đến các đảng bộ trực
thuộc Trung ương, ý kiến của đại biểu Quốc hội, của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể quần chúng, của cán bộ,
đảng viên và nhân dân cả trong và ngoài nước (các ý kiến đóng góp được
tổng hợp lại thành 1.410 trang; báo cáo tổng hợp chung gần 200 trang).
Trong
quá trình soạn thảo các văn kiện, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo
sát sao, chặt chẽ, vừa bảo đảm tiến độ, chất lượng, cập nhật được sự
thay đổi của tình hình, nhất là tác động của đại dịch Covid-19; vừa phát
huy dân chủ rộng rãi, bảo đảm tính khoa học, kết tinh được trí tuệ của
toàn Đảng, toàn dân. Đặc biệt, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước,
Trưởng Tiểu ban Văn kiện đã có nhiều bài viết, bài phát biểu rất quan
trọng để chỉ đạo việc biên soạn các văn kiện trình Đại hội XIII của
Đảng.
Có
thể khẳng định, việc chuẩn bị dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII
lần này đã được tiến hành rất công phu, chu đáo, bài bản, qua nhiều lần,
nhiều vòng, từng bước hoàn thiện, có nhiều đổi mới quan trọng về nội
dung và phương pháp. Quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn
giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và
phát triển, trên cơ sở phát huy dân chủ rộng rãi, dự thảo các văn kiện
đã thực sự là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, thể
hiện rõ sự thống nhất giữa "ý Đảng, lòng Dân", hoà quyện cùng quyết tâm
và ý chí phát triển của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các ý kiến, đề xuất tâm huyết,
trách nhiệm, kết tinh trí tuệ, ý chí và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta đã được nghiêm túc nghiên cứu, chắt lọc, lựa chọn
tiếp thu. Từ diễn đàn trọng thể này, Đại hội chúng ta chân thành cảm ơn
sự đóng góp quý báu của đồng chí, đồng bào, thể hiện tinh thần trách
nhiệm cao đối với Đảng, nhân dân và đất nước, mong muốn Đảng ta ngày
càng trong sạch, vững mạnh; đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh;
nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc; dân tộc ta ngày càng cường
thịnh, trường tồn.
II- VỀ TỔNG KẾT NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XII VÀ NHÌN LẠI 35 NĂM ĐỔI MỚI
Năm
năm qua, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức,
nhất là tác động của dịch bệnh và thiên tai liên tiếp xẩy ra, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí
quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu
rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát
triển nhanh và bền vững; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Kinh
tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng
5,9%). Nhiều khó khăn, vướng mắc, hạn chế, yếu kém từ các năm trước đã
được tập trung giải quyết và đạt những kết quả bước đầu. Chất lượng tăng
trưởng được cải thiện; kinh tế vĩ mô ổn định khá vững chắc; lạm phát
được kiểm soát và duy trì ở mức thấp; các cân đối lớn của nền kinh tế
tiếp tục được bảo đảm và có bước được cải thiện; kỷ luật, kỷ cương tài
chính - ngân sách nhà nước được tăng cường. Huy động vốn đầu tư toàn xã
hội tăng mạnh, hiệu quả sử dụng được nâng lên. Cán cân thương mại được
cải thiện; xuất khẩu tăng nhanh. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng, thực hiện ba đột phá chiến lược đạt được những kết
quả quan trọng. Môi trường đầu tư, kinh doanh, tiềm lực, quy mô và sức
cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên. Chính trị, xã hội ổn
định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực an sinh
xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi
trường, phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam, v.v... có nhiều
chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật.
Công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú
trọng, được tiến hành toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả trên tất cả các
mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Nhiều vấn đề phức
tạp được đặt ra và thực hiện từ những năm trước, nhưng hiệu quả còn
thấp, trong nhiệm kỳ này đã có chuyển biến tích cực. Công tác kiểm tra,
giám sát và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được
triển khai quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt
những kết quả cụ thể, rõ rệt. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát
hiện, điều tra, khởi tố, xét xử nghiêm minh, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh,
được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng
tình ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm
chế, ngăn chặn.
Trước
tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp,
chúng ta đã coi trọng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng và an
ninh, chủ động xử lý thành công các tình huống, không để bị động, bất
ngờ. An ninh chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và trật tự, an toàn xã
hội được giữ vững. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy
mạnh, không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu; kiên quyết, kiên trì bảo
vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia
- dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất
nước, đồng thời đóng góp tích cực, có trách nhiệm cho hoà bình, hợp tác,
phát triển của thế giới và khu vực, được cộng đồng quốc tế đồng tình
ủng hộ, đánh giá cao; uy tín, vị thế của Đảng, Nhà nước, thế và lực của
đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
Năm
2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tác động mạnh đến nước ta, gây
nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt
bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với
các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần
4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những
nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự
lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt,
kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống
chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước
và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm
soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch Covid-19 trong cộng đồng;
hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an
sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh
doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội của năm 2020 và cả giai đoạn 2016 - 2020. Việt Nam được thế
giới ghi nhận, coi là điểm sáng trong việc thực hiện thắng lợi "mục tiêu
kép" vừa khống chế, ngăn chặn đại dịch Covid-19 thành công; vừa phục
hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân.
Có
thể khẳng định, những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo được dấu ấn nổi bật, mà còn góp
phần củng cố niềm tin, tạo ra động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng
thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Đạt được những kết quả nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân
quan trọng nhất là ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết,
chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta; sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, thống nhất cao của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng trong việc
cụ thể hoá, triển khai thực hiện toàn diện Nghị quyết Đại hội XII, giải
quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn,
nhất là trong những lĩnh vực quan trọng, then chốt; sự quản lý, điều
hành nhạy bén, quyết liệt, có hiệu quả của Chính phủ và các cấp chính
quyền; sự đổi mới phù hợp, đúng đắn về nội dung và phương thức hoạt động
của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các tổ chức trong hệ thống
chính trị; sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần
lao động tích cực, cần cù, sáng tạo, trách nhiệm của nhân dân; sự đồng
tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Thưa các đồng chí,
Thưa Đại hội,
Qua
35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về
đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá.
Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát
triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả
sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành
tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá
trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với
thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới
của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính
trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta
vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền
tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Từ
thực tiễn công cuộc đổi mới, nhất là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng, chúng ta rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu:
Một là,
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn
diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm
quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn
kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc
xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây
dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện;
hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu
tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội
bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác cán
bộ phải thực sự là "then chốt của then chốt", tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương
mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương.
Hai là,
trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc
quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Nhân dân là trung
tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi
chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng,
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân
dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng
với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ba là,
trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, phải có quyết
tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích
cực; có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn, vướng
mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn liền với phát huy sức
mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi đôi với giữ
vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực
hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi trọng chất
lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển.
Bốn là,
tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài
hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật
thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo
vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm
quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; thực sự
coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn hóa,
của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất
nước.
Năm là,
chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tuyệt đối không
được để bị động, bất ngờ. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định an ninh, an toàn để phát triển đất nước.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ
vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Xử lý đúng đắn, hiệu quả mối
quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng; đánh giá đúng xu thế,
nắm bắt trúng thời cơ. Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước
kết hợp với sức mạnh của thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Những
bài học kinh nghiệm đó là cơ sở quan trọng để Đảng ta tiếp tục vận
dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, giúp
chúng ta kiên định, vững vàng và tự tin vượt qua những khó khăn, thách
thức mới và nhiệm vụ nặng nề hơn khi bước vào nhiệm kỳ khóa XIII.
III- VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XIII VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO
Trong
những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều
thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác và phát triển
vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách
thức. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng
đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh
tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay
gắt. Do tác động của đại dịch Covid-19, thế giới rơi vào khủng hoảng
nghiêm trọng nhiều mặt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển
mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách
thức đối với mọi quốc gia. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức
phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam
Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến
phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh
phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác động mạnh,
nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của
thế giới, khu vực và đất nước ta.
Trong
khi đó, dù đạt được những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự hào,
nhưng đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế.
Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng; sau 4 năm đầu của
nhiệm kỳ liên tục tăng trưởng cao, nhưng năm 2020 bị suy giảm mạnh do
tác động tiêu cực của dịch bệnh và thiên tai, hạn hán, bão lũ liên tiếp
xảy ra. Tính tự chủ và khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa cao.
Kinh tế tập thể, hợp tác xã phần lớn có quy mô còn nhỏ, năng lực nội tại
còn yếu. Hiệu quả hoạt động của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp.
Kinh tế tư nhân trong nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển
nhanh nhưng chưa thật bền vững. Công tác lãnh đạo, quản lý, bảo đảm an
ninh con người, trật tự, an toàn xã hội; sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi
trường còn nhiều bất cập, gây bức xúc xã hội. Các thế lực thù địch chống
phá ngày càng quyết liệt. Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn
lãnh thổ còn nhiều thách thức. Giá trị lịch sử, truyền thống văn hoá
của dân tộc và con người Việt Nam chưa được phát huy đầy đủ. Năng lực tổ
chức thực hiện còn hạn chế; chất lượng luật pháp, chính sách trong một
số lĩnh vực còn thấp. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều tổ chức
đảng, đảng viên còn chưa ngang tầm nhiệm vụ. Cơ chế kiểm soát quyền lực
trong Đảng, Nhà nước chưa thật đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa
cao. Việc thể chế hoá, cụ thể hoá một số nghị quyết của Đảng còn chậm;
tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Những khó khăn, hạn chế và khuyết
điểm đó đòi hỏi chúng ta phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn và hành động
quyết liệt hơn nữa để khắc phục cho bằng được. Tuyệt đối không được chủ
quan, tự mãn, mất cảnh giác.
Tiếp
tục thực hiện đường lối đổi mới trong giai đoạn tới, toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta cần quán triệt trong cả nhận thức và hành động thực
tiễn các quan điểm chỉ đạo cơ bản sau đây:
(1)
Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là
phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây
dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi
để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây
là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta,
là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng,
dao động.
(2)
Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo
đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát
triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát
triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là
trọng yếu, thường xuyên.
(3)
Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con
người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và
công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa
nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn
lực con người là quan trọng nhất.
(4)
Nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát
triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch,
vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
người đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Với
một đảng cách mạng chân chính, trong sạch, vững mạnh, có đủ bản lĩnh,
trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín lãnh đạo như Đảng ta, được nhân dân hết
lòng tin yêu, ủng hộ, chúng ta sẽ có một sức mạnh to lớn, vượt qua mọi
khó khăn, thách thức, không thế lực nào ngăn cản nổi dân tộc ta đi lên,
lập nên những kỳ tích mới trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước.
(5)
Trong nhiệm kỳ 2021 - 2025 và những năm tiếp theo, mục tiêu phát triển
tổng quát của chúng ta là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến
giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Trên
nguyên tắc bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa và bổ sung phù
hợp với những thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước;
đồng thời nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước và những chuẩn
mực phát triển chung của thế giới, chúng ta xác định các mục tiêu cụ thể
không chỉ trong nhiệm kỳ khoá XIII mà hướng tới những dấu mốc phát
triển quan trọng của đất nước ta trong những thập niên sắp tới:
- Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Đến năm 2030: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Để
thực hiện các mục tiêu đã nêu, trên cơ sở bám sát thực tiễn, xu hướng
phát triển của đất nước và thế giới, Báo cáo chính trị đề ra và các báo
cáo chuyên đề đã cụ thể hoá 12 định hướng chiến lược phát triển đất nước
trong thời kỳ 2021 - 2030. Các định hướng lớn bao quát những vấn đề
phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, trong đó
có nhiều vấn đề mới, nổi bật, đó là:
+
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế
phát triển bền vững đất nước; hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới mạnh
mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, chú trọng đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số
quốc gia, phát triển nền kinh tế số, xã hội số.
+
Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và
trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
+
Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; quản lý phát triển xã hội có hiệu quả,
nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; chủ động thích
ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ thiên tai, phòng, chống
dịch bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân; quản lý, khai thác và sử dụng
bền vững tài nguyên, chú trọng bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền
vững.
+
Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa;
kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương
hoá, đa dạng hoá, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu
rộng, có hiệu quả.
+
Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ
và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân
dân, tăng cường đồng thuận xã hội.
Xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, tiêu cực.
Tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Để
thực hiện được các định hướng nêu trên, chúng ta cần tiếp tục nắm vững
và xử lý tốt các quan hệ lớn: Giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị
trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý và nhân dân làm chủ; và đặc biệt, mối quan hệ mới được bổ sung lần
này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo
đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật
mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới
của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp
với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy
đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối
không được cực đoan, phiến diện.
Nhiệm
kỳ Đại hội XIII là một dấu mốc, một bước chuyển hết sức quan trọng, làm
tiền đề cho các nhiệm kỳ tiếp theo để thực hiện thắng lợi mục tiêu
chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Phát
huy ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc, sự thống nhất của "ý Đảng, lòng
Dân", chúng ta quyết tâm thực hiện thật tốt hệ thống các nhiệm vụ, giải
pháp mà các văn kiện trình Đại hội XIII đã đề ra để đưa đất nước ta bước
vào một giai đoạn phát triển mới với những trọng tâm sau đây:
(1)
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
Kết
hợp hài hòa, chặt chẽ và có hiệu quả giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng;
giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực và đổi
mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Tăng
cường xây dựng Đảng về chính trị. Hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư
tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới, thực hiện nghiêm các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Tăng cường giáo dục truyền
thống văn hóa, lịch sử và cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc; không
ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; thường
xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch, phản động, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tập
trung xây dựng Đảng về đạo đức, tích cực đấu tranh phòng, chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ gắn với đẩy mạnh
học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy
thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm
chức vụ càng cao càng phải gương mẫu.
Đổi
mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả đi đôi với việc củng cố, nâng cao chất lượng tổ
chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Đặc biệt coi trọng nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác cán bộ - nội dung then chốt trong công tác xây
dựng Đảng. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến
lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ. Có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán
bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu
trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách
và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
Nâng
cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước về thể chế hóa, cụ thể
hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Giữ vững
kỷ luật, kỷ cương đồng thời khắc phục bằng được sự yếu kém, chậm trễ
trong công tác lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện chủ trương, luật
pháp, chính sách, thực thi công vụ. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi
với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; nâng
cao chất lượng hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng. Tiếp tục thực hiện chiến lược cải cách tư pháp; nâng cao uy tín và
hiệu quả của hoạt động tư pháp.
Đổi
mới tổ chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo phương châm hướng mạnh về cơ
sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và
nhân dân, làm cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố, tăng
cường lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội
chủ nghĩa.
(2)
Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng khoa học và
công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng,
hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập
Xây
dựng nền công nghiệp quốc gia hiện đại, vững mạnh, gồm những ngành công
nghiệp nền tảng và công nghiệp mũi nhọn gắn với công nghệ thông minh.
Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tham gia phát triển những ngành
công nghiệp mới, hiện đại. Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển
kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, hướng tới mô hình nông
nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Phát triển
nông nghiệp hàng hoá tập trung, quy mô lớn theo hướng hiện đại, ứng dụng
công nghệ mới, giá trị gia tăng cao. Thực hiện tốt Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ chủ quyền biển,
đảo, tài nguyên, môi trường biển. Phát triển và nâng cao chất lượng các
ngành dịch vụ, ưu tiên những ngành có tiềm năng, lợi thế, những loại
hình dịch vụ mới mang lại hiệu quả cao; chú trọng các dịch vụ hỗ trợ sự
phát triển của công nghiệp và nông nghiệp. Tiếp tục đẩy nhanh và thực
hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý an toàn nợ công;
cơ cấu lại đầu tư công, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp nhà nước;
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
Tập
trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để sớm hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô và năng lực phục vụ, hỗ trợ phát triển
của Nhà nước. Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường
và xã hội; giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Khắc phục những
điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước, nhất là về thể chế, chính
sách.
Phát
triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả giữa các khu
vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh
doanh. Đẩy nhanh việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia,
các vùng, các ngành, lĩnh vực phù hợp với tiềm năng, lợi thế của từng
địa phương và thực tiễn đất nước nhằm nâng cao tính tự chủ, khả năng
thích ứng, sức chống chịu của nền kinh tế. Tăng cường tính liên kết
ngành, liên kết nội vùng và liên vùng, thúc đẩy tham gia vào các mạng
sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, mở ra các không gian phát triển mới.
Tiếp
tục phát huy vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong việc hình
thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị, nhất là
trong những ngành, lĩnh vực then chốt Nhà nước cần nắm giữ. Tạo mọi điều
kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, lớn mạnh
về quy mô, nâng cao về chất lượng. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt
động của các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác mà trọng tâm là
hợp tác xã, hỗ trợ phát triển kinh tế hộ, liên kết hộ. Chuyển trọng điểm
chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất
lượng; ưu tiên các dự án có công nghệ hiện đại, công nghệ và giá trị gia
tăng cao, mô hình quản trị hiện đại, có tác động lan toả, kết nối với
khu vực kinh tế trong nước.
Huy
động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát
triển kinh tế nhanh và bền vững. Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để khoa học và công
nghệ thực sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Thúc đẩy mạnh
mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để tạo bứt
phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế.
(3)
Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa,
sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Tập
trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường,
lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát
triển đất nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách
phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt
Nam. Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể,
là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị
truyền thống và giá trị hiện đại. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh
vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng,
văn minh, lành mạnh; vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa
tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng
tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế
- xã hội và hội nhập quốc tế.
Thực
hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh
con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và
hạnh phúc của nhân dân. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm
nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội
linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại. Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả
năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là đối với người nghèo,
người yếu thế trong xã hội, quan tâm chăm sóc bảo vệ sức khoẻ của nhân
dân. Nâng cao chất lượng dân số; tận dụng hiệu quả cơ hội thuận lợi từ
cơ cấu dân số vàng; chủ động thích ứng với xu thế già hoá dân số. Tạo
môi trường và điều kiện để phát triển thị trường lao động, đồng bộ, hiện
đại, linh hoạt, thống nhất, hội nhập và hiệu quả.
(4)
Giữ vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên
quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn
định để phát triển đất nước
Kết
hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc
phòng, an ninh. Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đến năm 2025, cơ
bản xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh; đến năm 2030, xây dựng một số
quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại; phấn đấu từ năm 2030, xây
dựng quân đội hiện đại. Phấn đấu đến năm 2030 xây dựng lực lượng Công an
nhân dân tinh nhuệ, hiện đại. Xây dựng "thế trận lòng dân", thế trận
quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng
cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng,
an ninh. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân
tự vệ vững mạnh, rộng khắp, luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức, có sức chiến đấu cao.
Kịp
thời phát hiện, chủ động xử lý có hiệu quả các vụ việc phức tạp về an
ninh, trật tự, không để xảy ra các "điểm nóng". Kịp thời đấu tranh trấn
áp hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm
xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, băng nhóm ma tuý…
Tiếp
tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc
tế. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng với ngoại
giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Nâng cao năng lực hội nhập, nhất là
cấp vùng và địa phương, doanh nghiệp; tận dụng tối đa các cơ hội từ quá
trình hội nhập mang lại, nhất là các hiệp định thương mại tự do đã ký
kết. Xây dựng nền ngoại giao hiện đại, trong đó chú trọng đẩy mạnh ngoại
giao quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tăng cường
ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân và doanh nghiệp làm
trung tâm phục vụ. Mở rộng và nâng cao hiệu quả ngoại giao văn hóa,
đóng góp thiết thực vào quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia và tăng
cường sức mạnh tổng hợp của đất nước.
(5)
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội
Giải
quyết hài hoà các quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội. Bảo
đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát
triển. Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách
dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho
đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết
toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước.
Đề
cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược
phát triển đất nước. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, quyền và
trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; có cơ
chế giải phóng mọi tiềm năng, sức mạnh, khả năng sáng tạo, động viên
nhân dân tham gia phát triển kinh tế và quản lý phát triển xã hội. Bảo
đảm công khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp
cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả
dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Chống các
biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức.
Đẩy
mạnh việc hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ,
hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, có sức
cạnh tranh quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân,
thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế,
xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới.
(6)
Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng
cường bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các
giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu
Xây
dựng chiến lược, hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý, sử dụng có hiệu
quả tài nguyên, trọng tâm là đất, nước và khoáng sản. Xây dựng hệ thống
luật pháp, chính sách và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường và biến
đổi khí hậu, dự báo, cảnh báo thiên tai, ô nhiễm và thảm hoạ môi trường,
dịch bệnh. Ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về
tài nguyên và môi trường. Chủ động, tích cực hợp tác quốc tế trong việc
chia sẻ thông tin, phối hợp nghiên cứu, quản lý, khai thác và sử dụng
hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên, bảo đảm an ninh sinh thái, an
ninh môi trường, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng
lượng.
Giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi
trường. Phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí
nhà kính, các-bon thấp; khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần
hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất. Nâng
cao tính chống chịu và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của hệ
thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế; thực hiện các giải pháp thông
minh để thích ứng với biến đổi khí hậu trong nông, lâm, ngư nghiệp và
các lĩnh vực khác của nền kinh tế.
Trong
quá trình thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu nêu
trên, chúng ta cần tập trung đầu tư nguồn lực và đặc biệt chú trọng
trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, tạo sự chuyển biến về chất trong việc
thực hiện ba đột phá chiến lược do Đại hội lần thứ XI, XII đã đề ra và
được Đại hội lần này bổ sung, cụ thể hoá cho phù hợp với giai đoạn phát
triển mới, cụ thể là:
(1)
Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung ưu tiên
hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật
pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh
thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động,
quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất
đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng
thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện
pháp hữu hiệu.
(2)
Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu
tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then
chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn
diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng,
đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát
triển khoa học - công nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hoá, sức
mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
(3)
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã
hội, về môi trường và quốc phòng, an ninh, ưu tiên phát triển một số
công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí
hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng
chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
Thưa các đồng chí,
Thưa Đại hội,
Với
phương châm: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển,
chúng ta cần thảo luận kỹ lưỡng để đạt được sự thống nhất cao và biểu
quyết thông qua các văn kiện của Đại hội, bảo đảm cho sự thành công của
Đại hội, tạo cơ sở cho việc quán triệt, triển khai thực hiện thật tốt
Nghị quyết Đại hội, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề
ra.
Thực
tiễn sinh động, phong phú, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
cùng những bài học kinh nghiệm sâu sắc qua 35 năm đổi mới, nhất là 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, tinh thần đoàn kết và sự
thống nhất của toàn hệ thống chính trị, sự tin tưởng và ủng hộ của nhân
dân là cơ sở vững chắc để Đảng ta đưa ra những thông điệp mạnh mẽ, những
quyết sách sáng suốt, đúng đắn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ,
có hiệu quả công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước trong
giai đoạn mới. Chúng ta hãy khắc sâu lời dạy của Bác Hồ kính yêu: "Đại
hội Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và của nhân dân
ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư
tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa". Với hướng đi
đúng đắn, hợp quy luật; ý Đảng hợp với lòng dân; phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, khát vọng vươn lên mãnh liệt và ý chí, quyết
tâm chính trị cao, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhất định sẽ lập
nên những kỳ tích phát triển mới, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh", vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện
thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của
toàn dân tộc.
Xin
chúc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII thành công tốt đẹp. Chúc
các vị khách quý và các đồng chí đại biểu Đại hội sức khỏe và hạnh phúc.
Xin trân trọng cảm ơn!