na
NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH HẢI DƯƠNG LẦN THỨ XI, NHIỆM KỲ 2025-2030! 
Nghiên cứu trao đổi
XÂY DỰNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
02/06/2025 07:14:17

Thuật ngữ "hiệu quả" là một khái niệm rất phức tạp được sử dụng cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và hành chính cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm "hiệu quả" được hiểu là: Kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại. Trong khi đó, các nhà quản lý hành chính lại cho rằng: Hiệu quả là mục tiêu chủ yếu của khoa học hành chính, là sự so sánh giữa các chi phí đầu vào với các giá trị của đầu ra, sự tăng tối đa lợi nhuận và tối thiểu chi phí, là mối tương quan giữa sử dụng nguồn lực và tỷ lệ đầu ra - đầu vào. Hiệu quả phản ánh giá trị của các kết quả cao hơn giá trị của các nguồn lực đã chi này. Như vậy, xác định hiệu quả của một hoạt động kinh tế thường cho chúng ta những con số chính xác và cụ thể, nhưng đối với các hoạt động xã hội nói chung và hoạt động giám sát nói riêng, để tính được đầy đủ hiệu quả đạt được là rất khó khăn và phức tạp, bởi vì kết quả của hoạt động này nhiều khi được đánh giá chủ yếu mang tính chất định tính chứ không phải định lượng.

Khi nghiên cứu về hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã, chỉ số đánh giá mang tính chất lưỡng tính tức là vừa định lượng vừa định tính. Yếu tố có thể định lượng chính là chi phí trực tiếp cho hoạt động giám sát, bao gồm chi phí việc xây dựng chương trình, nội dung giám sát, tổ chức giám sát, thời gian giám sát, số lượng thành viên tham gia... Tuy nhiên, cũng có những yếu tố không thể lượng hoá như năng lực, uy tín, trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm... và sự am hiểu về các lĩnh vực giám sát của chủ thể tiến hành giám sát. Những yếu tố này có vai trò, tác động rất lớn đến hoạt động giám sát nhưng không thể lượng hoá như các chi phí khác.

Cùng với đó là kết quả thu về sau giám sát của HĐND cấp xã không chỉ đơn giản tính bằng những yếu tố định lượng mà còn dựa vào cả yếu tố định tính. Hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã không những thể hiện ở chỗ các chủ thể bị giám sát đã chấn chỉn uốn nắn hoạt động của mình theo đúng quy định của Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND mà thông qua giám sát nâng cao tinh thần, trách nhiệm của các cá nhân có chức trách, củng cố niềm tin của cử tri đối với cơ quan dân cử. Làm tốt công tác giám sát sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến các vấn đề kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn trên địa bàn địa phương. Thực tế, hiện nay nhiều địa phương khi đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND mới chủ yếu dừng lại qua các con số: Số lượng các đoàn giám sát, các vấn đề được chất vấn qua các kỳ họp... còn kết quả/tác động của các hoạt động đó mang lại hiệu quả như thế nào trong thực tế rất khó xác định. Như vậy, hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã phải được đánh giá trên cả yếu tố định tính và định lượng.

Như vậy có thể hiểu, Hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã là kết quả thu được sau quá trình tiến hành các hoạt động giám sát so với những chi phí về thời gian, vật chất, nguồn lực lao động... cho các hoạt động giám sát của HĐND cấp xã. Khái lược về mặt lý luận cũng như hoạt động tổng kết thực tiễn, các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp xã có thể được xem xét cụ thể như sau:

* Thứ nhất, mức độ đảm bảo thực hiện đúng và đầy đủ các nguyên tắc giám sát của Hội đồng nhân dân, bao gồm: (1) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm đúng nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật về hoạt động giám sát; (2) Không làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát; (3) Được tiến hành thường xuyên, bảo đảm khách quan, công khai, minh bạch, hiệu quả; (4) Báo cáo kết quả giám sát kịp thời và đúng thời hạn; chú trọng công tác theo dõi, đôn đốc thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát;(5) Tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.

* Thứ hai, mức độ trách nhiệm của các chủ thể giám sát, bao gồm: (1) Hội đồng nhân dân báo cáo về hoạt động giám sát của mình trước cử tri địa phương thông qua phương tiện thông tin đại chúng và hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân; (2) Thường trực Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo về hoạt động giám sát của mình trước Hội đồng nhân dân; (3) Đại biểu Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo về hoạt động giám sát của mình trước cử tri tại địa phương thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri; (4) Các chủ thể giám sát trên chịu trách nhiệm về báo cáo, nghị quyết, kết luận, yêu cầu, kiến nghị giám sát của mình.

* Thứ ba, mức độ chuyển biến về tình hình kinh tế - xã hội, an ninh trật tự ở địa phương sau giám sát. Theo đó các tiêu chí để nhận diện có thể kể đến như: (1) Mức độ chuyển biến về tình hình an ninh, trật tự của địa phương; (2) Mức độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương; (3) Mức độ hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; (4) Mức độ chuyển biến về đời sống vật chất, tinh thần của người dân địa phương; (5) Mức độ giải quyết các vấn đề về an sinh xã hội ở địa phương.

* Thứ tư, kết quả các hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Trong đó, (1) Đối với hoạt động giám sát xem xét báo cáo, cần đánh giá trên các tiêu chí như: Xem xét tính đầy đủ, khoa học báo cáo công tác của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp; Mức độ tham gia ý kiến thảo luận về nội dung báo cáo; Mức độ đầy đủ, chính xác về nội dung của Nghị quyết về công tác của cơ quan có báo cáo. (2) Đối với hoạt động giám sát xem xét quyết định của UBND cấp xã, cần xem xét về: Mức độ thường xuyên, kịp thời của hoạt động giám sát xem xét quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cấp xã; Mức độ đảm bảo về chất lượng Nghị quyết của Hội đồng nhân dân về kết quả xem xét quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã. (3) Đối với hoạt động giám sát xem xét trả lời chất vấn, cần có tiêu chí đánh giá về việc lựa chọn đối tượng chất vấn, đánh giá về nội dung chất vấn và trả lời chất vấn, mức độ chuyển biến của nhóm vấn đề được chất vấn. (4) Đối với hoạt động giám sát chuyên đề của HĐND cấp xã, cần đánh giá việc lựa chọn nội dung chuyên đề giám sát là vấn đề bức xúc, nổi cộm ở địa phương, mức độ đảm bảo các quy định về nội dung và hình thức của Nghị quyết thành lập Đoàn giám sát chuyên đề, mức độ đảm bảo về chất lượng nội dung Nghị quyết giám sát chuyên đề.

* Thứ năm, đánh giá kết quả đạt được sau giám sát so với mục đích đề ra ban đầu. Theo đó một số tiêu chí cần được làm rõ bao gồm: Mức độ giải quyết những vấn đề bức xúc trong đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương; Mức độ nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của đối tượng chịu sự giám sát mà trực tiếp là hoạt động của UBND cấp xã; Những chuyển biến trong việc khắc phục thiếu sót, khuyết điểm mà hoạt động giám sát chỉ ra trên các lĩnh vực cụ thể; Thái độ chấp hành kiến nghị giám sát của đối tượng chịu sự giám sát.

* Thứ sáu, so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí của hoạt động giám sát. Để làm rõ được nội dung này cần đánh giá được mức độ phù hợp về số lượng các cuộc giám sát thường xuyên và chuyên đề của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND; Mức độ hợp lý về thời gian tiến hành cuộc giám sát; Sự phù hợp về kinh phí giám sát và kết quả giám sát.

Hiện nay, về việc thống nhất các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND các cấp nói chung và HĐND cấp xã nói riêng vẫn là một khoảng trống pháp lý. Do vậy sắp tới đây khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp thì yêu cầu về chất lượng hoạt động của HĐND lại càng đặt ra bức thiết hơn nữa. Do đó việc xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng cần được các cơ quan chức năng nghiên cứu, nhận diện để HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương./.

ThS. Phạm Thị Thanh, Khoa Nhà nước và pháp luật