Ngày
19/8/1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng
đánh chiếm Bắc Bộ Phủ (Ảnh tư liệu: Bảo tàng Lịch sử quốc gia)
Trong
chiến lược đại đoàn kết dân tộc, phát huy nhân tố con người, Ðảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chân thành, thật sự tin cậy, tập hợp và đoàn kết
các lực lượng nhân sĩ, trí thức tham gia tích cực vào sự nghiệp cách
mạng của dân tộc do Ðảng Cộng sản lãnh đạo. Là thành viên của Mặt trận
Việt Minh, Hội Văn hóa cứu quốc từ năm 1943 đã tập hợp đông đảo trí
thức, các nhà hoạt động văn hóa hướng theo mục tiêu cách mạng về văn hóa
và sẵn sàng tham gia vào cuộc cách mạng chính trị, đánh đổ chế độ phong
kiến, thực dân để xây dựng chế độ mới tiến bộ. Ðược sự giúp đỡ của
những người cộng sản, Ðảng Dân chủ Việt Nam ra đời ngày 30/6/1944 tập
hợp rộng rãi những trí thức yêu nước đấu tranh cho nền độc lập. Ở Nam
Kỳ, tháng 5/1945, Xứ ủy (Tiền Phong) chủ trương lập tổ chức "Thanh niên
tiền phong" do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch lãnh đạo với sự tham gia của đông
đảo thanh niên, sinh viên. Nhóm Huỳnh, Mai, Lưu (Huỳnh Văn Tiểng, Mai
Văn Bộ, Lưu Hữu Phước) có ảnh hưởng lớn với ca khúc Lên đàng. Ở Bắc Kỳ,
trí thức văn nghệ sĩ có hoạt động rất sôi nổi. Văn Cao sáng tác Tiến
quân ca, Nguyễn Ðình Thi với ca khúc Diệt phát xít và trong ngày Hà Nội
khởi nghĩa là sự hào hùng của ca khúc 19 tháng 8 của Xuân Anh. Ðó là vũ
khí đấu tranh có sức mạnh to lớn, độc đáo và sáng tạo.
Ðường
lối của Ðảng, chính sách của Mặt trận Việt Minh có sức cổ vũ và lan tỏa
rộng rãi. Trong những ngày diễn ra Tổng khởi nghĩa giành chính quyền,
lực lượng trí thức, thanh niên, sinh viên tham gia đông đảo, tích cực.
Quốc dân Ðại hội Tân Trào họp ngày 16/8/1945 với hơn 60 đại biểu của cả
nước, trong đó có những đại biểu trí thức, nhân sĩ tiêu biểu. Ủy ban
Giải phóng dân tộc được thành lập do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch
trong đó có nhiều trí thức yêu nước tiêu biểu như Cù Huy Cận, Nguyễn
Ðình Thi, Dương Ðức Hiền, Trần Huy Liệu, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu
Ðang.
Cách
mạng thành công, ngày 28/8/1945, tại Hà Nội, Ủy ban Giải phóng dân tộc
từ Tân Trào trở thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa chuẩn bị cho lễ tuyên bố độc lập và ra mắt Chính phủ. Ðiều đặc biệt
là một số đảng viên cộng sản trong đó có Tổng Bí thư Trường Chinh (Ðặng
Xuân Khu), đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã xin rút khỏi Chính phủ lâm thời
để mời các nhân sĩ, trí thức tham gia Chính phủ. Ðó là việc làm cao cả.
Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: "Ðó là một cử chỉ vô tư tốt
đẹp không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn
dân lên trên lợi ích cá nhân. Ðó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà
chúng ta phải học"(1). Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch
kiêm Bộ trưởng ngoại giao với 15 thành viên trong đó có chín bộ trưởng
là nhân sĩ, trí thức và nhiều người đã suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân. Cụ Nguyễn Văn Tố, sinh năm 1889, người con của Hà Nội, làm
Hội trưởng Hội truyền bá Quốc ngữ từ năm 1939, giữ chức Bộ trưởng Bộ Cứu
tế xã hội và ngày 2/3/1946 được Quốc hội bầu làm Trưởng ban Thường trực
Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Chủ tịch
Quốc hội), cụ đi kháng chiến và anh dũng hy sinh tháng 10/1947 ở Việt
Bắc.
Ngày
6/1/1946, cử tri cả nước bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc
lập. Nhiều nhân sĩ, trí thức được bầu làm đại biểu Quốc hội. Nhiều vị
tham gia Chính phủ chính thức, tiêu biểu như cụ Huỳnh Thúc Kháng, một
nhà yêu nước nổi tiếng và khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm nước Pháp
(5-1946) đã ủy nhiệm cụ Huỳnh làm Quyền Chủ tịch. Các vị khác cũng mang
hết trí tuệ, công sức tham gia Chính phủ: Phan Anh, Ðặng Thai Mai, Vũ
Ðình Hòe, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Minh Giám, Ngô Tấn Nhơn, Trần Ðăng
Khoa, Trương Ðình Tri, Bồ Xuân Luật,... Chính phủ thật sự là hình ảnh
của tinh thần đại đoàn kết dân tộc.
Trong
lịch sử thế giới, có những cuộc cách mạng đánh đổ chế độ phong kiến, đã
xử tử hoặc bỏ tù vua, đàn áp những người của chế độ cũ. Cách mạng Tháng
Tám của Việt Nam có một điều đặc biệt là đã không diễn ra việc đó. Sau
khi thoái vị (ngày 30/8/1945), cựu hoàng Bảo Ðại (Vĩnh Thụy) được mời
làm Cố vấn tối cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại Hà Nội,
Chính phủ đã tạo điều kiện tốt nhất để Cố vấn Vĩnh Thụy làm việc. Trong
hoàn cảnh đất nước phải chống thù trong, giặc ngoài, kinh tế khó khăn,
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đồng chí Lê Văn Hiến vào Huế thăm
các thành viên của hoàng tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ mời cựu
Hoàng hậu Nam Phương chuyển ra Hà Nội cùng Cố vấn Vĩnh Thụy. Bà đã cảm
ơn và xin được ở lại Huế. Bà đã tích cực tham gia ủng hộ Chính phủ và
chế độ mới.
Một
số vị quan của chế độ phong kiến tự nguyện, hăng hái tham gia vào bộ
máy Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cụ Bùi Bằng Ðoàn, sinh năm 1889,
từng là Tri huyện, Tuần phủ và năm 1933 là Thượng thư Bộ hình. Cách
mạng Tháng Tám thắng lợi, cụ là thành viên Ban Cố vấn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đại biểu Quốc hội khóa I và tháng 11/1946 là Trưởng ban Thường
trực Quốc hội tới khi qua đời (1955). Cụ Phan Kế Toại, sau ngày Nhật
đảo chính Pháp (9/3/1945) giữ chức Khâm sai đại thần, nhiều lần liên lạc
với Việt Minh, từ chức ngày 18/8/1945, sau Cách mạng đi kháng chiến,
được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ; sau hòa bình (1954) được cử làm Phó Thủ
tướng Chính phủ đến khi qua đời năm 1973. Các cụ Phạm Khắc Hòe, Vũ Ðình
Hòe, bà Vĩnh Thụy (Nam Phương) và nhiều vị khác tham gia Ủy ban Nghiên
cứu kế hoạch kiến thiết và nhiều công việc khác của Nhà nước cách mạng.
Tại
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3/9/1945). Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định chính sách tôn giáo: "Tín ngưỡng tự do và lương giáo
đoàn kết". Ðó là một chính sách đặc biệt gắn liền tự do tín ngưỡng với
quyền tự do của đồng bào với tinh thần đoàn kết, hòa hợp các tôn giáo,
không thành kiến, kỳ thị tôn giáo và nhận thức đúng đắn về tôn giáo.
Ngày lễ Nô-en đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (25/12/1945), Chủ tịch
Hồ Chí Minh có Thư gửi các vị linh mục và đồng bào Công giáo. Linh mục
Phạm Bá Trực là đại biểu Quốc hội, rồi Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội
(1946).
Những
điều đặc biệt của Cách mạng Tháng Tám và Nhà nước cách mạng do Ðảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, có thể còn nhiều người chưa biết hoặc
chưa hiểu rõ. Ðó là cuộc cách mạng đã dẫn tới ra đời Nhà nước cách mạng
tiêu biểu cho sự đoàn kết hòa hợp dân tộc vì lợi ích của quốc gia, dân
tộc, của toàn dân. Cuộc Cách mạng Tháng Tám không chỉ thay đổi chế độ
chính trị mà còn in dấu ấn sự ra đời của nền chính trị văn minh, đồng
thời mang giá trị của chiều sâu văn hóa. Cuộc cách mạng đó là sự thống
nhất không thể tách rời giữa lý tưởng, mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản
với chủ nghĩa yêu nước và lợi ích quốc gia, dân tộc chân chính.
-----------------------------
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, trang 26.