Cán bộ và công tác cán bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết”.
Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới với yêu cầu rất cao, bởi chúng ta có thời cơ nhiều, vận hội lớn, nhưng khó khăn, thách thức cũng rất gay gắt. Do đó, hơn bao giờ hết, công tác cán bộ phải được quan tâm, đặc biệt chú trọng. Chỉ khi làm tốt công tác cán bộ thì mục tiêu bước vào kỷ nguyên mới mới được hiện thực hóa.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới, theo, Tổng Bí thư Tô Lâm cán bộ cần có:
Một là: Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đột phá vì lợi ích chung; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Hai là: Có bản lĩnh, quyết tâm cao, sẵn sàng dấn thân, hy sinh lợi ích cá nhân. Dám đi đầu, đổi mới, loại bỏ cái cũ, cái lạc hậu; khơi thông điểm nghẽn, giải quyết vướng mắc, ách tắc trong thực tiễn, mang lại hiệu quả cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; giải quyết những vấn đề sai sót tồn đọng, kéo dài hoặc đột phá đối với những vấn đề mới chưa có quy định hoặc quy định chồng chéo, thiếu thống nhất, khó thực hiện.
Ba là: Có năng lực cụ thể, tổ chức thực hiện, đưa chủ trương chiến lược của Đảng vào thực tiễn từng bộ, ban, ngành, địa phương (chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển hạ tầng chiến lược, cải cách triệt để thủ tục hành chính...).
Cuộc cách mạng về tinh giản tổng thể đổi mới hệ thống chính trị đã được khẳng định, hướng tới xây dựng một bộ máy chính trị gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có bản lĩnh chính trị, chuyên nghiệp, thực tài, tận tụy phục vụ nhân dân. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Quan điểm “Tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” do Tổng Bí thư Tô Lâm nêu ra đã trở thành kim chỉ nam quan trọng cho việc xây dựng một bộ máy nhà nước tinh gọn, phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại. Với tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”, “thời gian không chờ đợi”, nên trong quý I/2025, Quốc hội đã thông qua nhiều luật, nghị quyết quan trọng như: Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi); Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội; 1 Nghị quyết về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước; 4 Nghị quyết để thực hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy của Quốc hội, Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV; đặc biệt là Nghị quyết về cơ cấu tổ chức của Chính phủ, cơ cấu số lượng thành viên Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV (2021 - 2026) và kiện toàn 06 chức danh thành viên Chính phủ (gồm: 02 Phó Thủ tướng và 04 Bộ trưởng). Đối với cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, hiện nay, thực hiện Kết luận số 121-KL/TW, Kết luận số 126-KL/TW và Kết luận số 127-KL/TW thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, trong đó có việc sắp sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp.
Việc này hướng đến xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy có tính ổn định lâu dài, có tầm nhìn chiến lược cho sự phát triển chung của đất nước, bảo đảm phù hợp với các yếu tố lịch sử, văn hóa, truyền thống, tôn giáo, dân tộc, quốc phòng, an ninh và gắn kết chặt chẽ với các vấn đề địa chính trị, địa lý, địa kinh tế, địa văn hóa, địa dân cư; tạo lập không gian cho sự phát triển bền vững làm cơ sở nền tảng thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước trong kỷ nguyên mới và hỗ trợ các địa phương cùng phát triển. Đồng thời cũng đáp ứng xu thế quản trị chung của các quốc gia trên thế giới về thực hiện tinh gọn hệ thống tổ chức bộ máy bảo đảm hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả gắn với việc cơ cấu, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Theo đó, cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 có 17 bộ, ngành (gồm: 14 bộ và 3 cơ quan ngang Bộ), giảm 5 bộ, ngành so với trước đây. Về tổ chức bên trong các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, giảm 13/13 tổng cục và tổ chức tương đương, giảm 519 cục và tổ chức tương đương, giảm 219 vụ và tổ chức tương đương, giảm 3.303 chi cục và tương đương chi cục.
Đối với các địa phương, 63 tỉnh và thành phố theo chỉ đạo chung của Chính phủ đã giảm 343 cơ quan chuyên môn và tương đương thuộc UBND cấp tỉnh; 1.454 cơ quan chuyên môn và tương đương thuộc UBND cấp huyện. Với việc thông qua Luật Chính quyền địa phương (sửa đổi), từ ngày 1-7 chính quyền địa phương còn 2 cấp (tỉnh, xã), không còn cấp huyện. Trong 696 đơn vị hành chính cấp huyện kết thúc hoạt động, có 85 thành phố (TP) thuộc tỉnh, 2 TP thuộc TP trực thuộc trung ương, 52 thị xã, 49 quận và 508 huyện. Trong số 87 TP kết thúc hoạt động từ ngày 1-7, có 2 TP thuộc TP trực thuộc trung ương là Thủ Đức (TP.HCM) và Thủy Nguyên (TP Hải Phòng).
Nghị quyết 125/NQ-CP năm 2025 thông qua hồ sơ Đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh. Ngày 12.6.2025, với 461/465 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua nghị quyết sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh năm 2025, cả nước còn 34 tỉnh, thành phố.
Từ 01.7.2025 vận hành bộ máy mới của chính quyền địa phương 2 cấp, điều đó cũng có nghĩa công việc của cán bộ, công chức, viên chức tăng lên, nhiều công việc mới với sự vận hành của bộ máy mới. Vì vậy, để bộ máy đi vào hoạt động hiệu quả và ổn định thì đội ngũ cán bộ hơn lúc nào hết phải thể hiện rõ tinh thần “6 dám” (dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt hành động vì lợi ích chung)
Tuy nhiên, cách mạng là công việc mới mẻ, to lớn và có thành công những cũng có tổn thất, sự sáng tạo, đổi mới trong khoa học hay trên các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng vậy, luôn đối mặt với rủi ro, tổn thất chứ không có cuộc cách mạng toàn chiến thắng và cũng không có sự đổi mới nào cũng toàn thành công, vì vậy có không ít cán bộ, đảng viên còn băn khoăn, lo lắng việc đổi mới, sáng tạo, đột phá dễ đụng chạm, mà luật chưa….Thấy được những băn khoăn và điểm nghẽn trong việc khuyến khích cán bộ “6 dám”, Nghị định Số: 73/2023/NĐ-CP, ngày 29 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Nghị định đã chỉ rõ:
1. Khuyến khích là sự khích lệ, tin tưởng, tôn trọng, ghi nhận, động viên, tạo động lực, nguồn lực, điều kiện và môi trường để cán bộ phát huy tính năng động, sáng tạo.
2. Bảo vệ là việc áp dụng các biện pháp cần thiết, kịp thời, hiệu quả, phù hợp với quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước và thực tiễn triển khai để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cán bộ và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
3. Cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm là cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý, viên chức quản lý, người giữ chức danh, chức vụ và người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ có tư duy đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn nhằm tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách chưa được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung.
4. Vì lợi ích chung là vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, cộng đồng, của ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị mà không vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, không có động cơ vụ lợi.
Về Nguyên tắc khuyến khích, bảo vệ cán bộ:
1. Cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung phải được khuyến khích, bảo vệ.
2. Khuyến khích, bảo vệ cán bộ có đề xuất đổi mới, sáng tạo được cơ quan sử dụng cán bộ xem xét, quyết định cho thực hiện trong phạm vi thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật, bảo đảm không trái quy định của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan nhà nước cấp trên và Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
3. Cán bộ có đề xuất đổi mới, sáng tạo được cơ quan sử dụng cán bộ xem xét, quyết định cho thực hiện, có kết quả đóng góp vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, của ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị được ghi nhận, tôn vinh, khen thưởng xứng đáng. Cơ quan sử dụng cán bộ báo cáo, xin ý kiến cấp ủy, tổ chức đảng cùng cấp trước khi phê duyệt và đánh giá kết quả thực hiện đề xuất đổi mới, sáng tạo.
4. Việc khuyến khích và bảo vệ cán bộ phải được thực hiện kịp thời, dân chủ, công khai, minh bạch; đúng đối tượng, trình tự, thủ tục theo quy định tại Nghị định này và pháp luật có liên quan. Cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời xem xét, đánh giá kết quả thực hiện, xác định rõ các nguyên nhân khách quan, chủ quan, đánh giá khách quan, toàn diện đối với việc đề xuất và thực hiện đề xuất đổi mới, sáng tạo.
5. Cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung có thể không bị xử lý trách nhiệm, được loại trừ, miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 11 Nghị định này….
Để Nghị định đi vào cuộc sống, khuyến khích cán bộ tự tin, năng động dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sáng tạo đáp ứng nhiệm vụ cách mạng trong kỷ nguyên phát triển của đất nước …, rất cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Việc xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ “6 dám” phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, có sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của nhân dân; trên cơ sở phân định rõ người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung với người phiêu lưu, liều lĩnh, viển vông, không thực tế; bảo vệ đối với những trường hợp có nguy cơ rủi ro, sai sót từ sớm, ngay khi có kế hoạch, không để nhụt chí.
Khi cán bộ, đảng viên có ý tưởng mới mẻ, đột phá thì cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cần nghiêm túc xem xét tính khả thi, nội dung, tính chất, quy mô của ý tưởng để yêu cầu cán bộ, đảng viên xây dựng kế hoạch hoặc đề án phù hợp; sau đó thảo luận, bàn bạc dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, trưng cầu ý kiến chuyên gia và các đối tượng bị tác động; đánh giá, thẩm định kế hoạch và quyết định cho cán bộ, đảng viên triển khai hoặc không triển khai. Ngược lại, cán bộ, đảng viên có ý tưởng đổi mới, sáng tạo nhất thiết phải báo cáo và được sự cho phép của cấp có thẩm quyền trước khi triển khai.
Việc bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá phải được thiết kế theo phương châm: Cách bảo vệ cán bộ, đảng viên tốt nhất, hiệu quả nhất là chủ động ngăn ngừa rủi ro, sai sót ngay từ khi cán bộ mới xây dựng kế hoạch dám làm, dám đột phá. Bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá phải dựa trên các tiêu chí, điều kiện, quy trình cụ thể, rõ ràng để phân biệt giữa hành vi đột phá, quyết đoán vì lợi ích chung nhưng mắc sai lầm, khuyết điểm với những sai lầm, khuyết điểm tương tự nhưng vì lợi ích cá nhân.
- Phải kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ
Xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc bằng trách nhiệm. Xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ. Thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu. Xác minh, xử lý kịp thời, hiệu quả, hợp lý thông tin phản ánh từ các tổ chức, cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng.
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên đề, chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên. Coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm, bảo đảm không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Nhận thức sâu sắc về tác hại nghiêm trọng của tệ chạy chức, chạy quyền, coi đây là hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ.
- Nhận diện rõ, đấu tranh quyết liệt, hiệu quả với các đối tượng có biểu hiện, hành vi chạy chức, chạy quyền. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng và danh dự của cán bộ để hình thành văn hóa không chạy chức, chạy quyền. Bên cạnh đó, cần mở rộng dân chủ, phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, HĐND; vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội; phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Tăng cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác cán bộ.
Thực hiện hiệu quả các giải pháp nêu trên là góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược ngang tầm với yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng của Đảng, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Đỗ Thị Lan, Phó trưởng khoa Xây dựng Đảng