ThS.
Lê Minh Thảo
Phó
trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật
Luật đất đai năm
2013 (sửa đổi bổ sung năm 2018) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo thành
hệ thống pháp luật đất đai tương đối đồng bộ, là cơ sở pháp lý giải quyết các
quan hệ pháp luật về đất đai. Tại tỉnh Hải Dương, quá trình thực hiện Luật đất
đai năm 2013 đến nay đã tạo sự chuyển biến tích cực trong quản lý và sử dụng đất,
cụ thể:
Công tác lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng đất cho các ngành,
lĩnh vực tạo hành lang pháp lý thực hiện công tác quản lý nhà nước về đất đai
theo quy hoạch; công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất được thực hiện chặt
chẽ, đúng quy định; tình trạng vi phạm pháp luật đất đai đã cơ bản được ngăn chặn,
xử lý và có chiều hướng thuyên giảm; công tác đăng ký đất đai, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được
thực hiện theo trình tự thủ tục hành chính công khai, minh bạch, rút ngắn thời
gian thực hiện; công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại về đất đai đã chấn chỉnh
những sai phạm của cơ quan quản lý và người sử dụng đất.
Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả nêu trên, công tác thực hiện Luật đất đai năm 2013 tại tỉnh Hải
Dương còn có một số hạn chế sau:
Thứ
nhất, công tác lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm ở một số
chỉ tiêu sử dụng đất còn chưa sát với thực tế, chưa dự báo chính xác nguồn vốn
để thực hiện công trình, dự án của chủ đầu tư trong năm kế hoạch. Việc lập, thẩm
định, phê duyệt quy hoạch sử dụng đất các cấp còn chậm chưa đáp ứng yêu cầu phục
vụ công tác quản lý. Nội dung của quy hoạch đô thị, quy hoạch ngành, lĩnh vực
có sử dụng đất, quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở các địa phương chưa phù hợp
với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, chưa điều chỉnh kịp thời theo quy định của
pháp luật đất đai.
Thứ
hai,
công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất còn nhiều vướng mắc
như: việc xác định mức vốn ngân sách cấp cho bồi thường giải phóng mặt bằng các
dự án thường không chính xác vì một số dự án chỉ tạm tính số tiền giải phóng mặt
bằng; có dự án mới chỉ có chủ trương đầu tư chưa có số liệu cụ thể; việc giải
phóng mặt bằng thực hiện nhiều dự án không đảm bảo thời gian, tiến độ; tỉnh
chưa thành lập được Quỹ phát triển đất để chủ động bồi thường giải phóng mặt bằng,
thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất; việc giao đất, cho thuê đất theo hình thức
đấu giá quyền sử dụng đất còn hạn chế.
Thứ
ba,
công tác thu hồi đất đai, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ở một số dự án còn chậm
tiến độ do phải thực hiện việc ứng vốn đển thực hiện bồi thường, giải phóng mặt
bằng sau đó mới thực hiện các thủ tục đầu tư. Công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo ở một số địa phương còn thiếu quyết liệt, còn có tâm lý né tránh, ngại va
chạm, chỉ để cho cán bộ làm công tác chuyên môn thực hiện. Việc quản lý đất đai
ở một số nơi còn buông lỏng, để xảy ra vi phạm nhưng không xử lý kịp thời, triệt
để. Hoạt động tuyên truyền, vận động chưa được quan tâm, phát huy đúng mức để tạo
sự đồng thuận trong triển khai một số dự án. Việc lấy ý kiến của nhân dân trong
quá thu hồi đất chủ yếu mới thực hiện được việc công khai phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định, chưa thực hiện được việc lấy ý kiến tham vấn từ cộng đồng.
Thứ
tư,
trong công tác xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý đất đai ở một số huyện chất lượng
còn chưa cao, như: hồ sơ Giấy chứng nhận đa số là các bộ hồ sơ cũ được cấp theo
nền bản đồ cũ, không đồng bộ với dữ liệu không gian của bản đồ địa chính mới;
việc cập nhật, khai thác sử dụng cơ sở dữ liệu còn hạn chế do thiếu trang thiết
bị, đường truyền và nhiều công chức chưa sử dụng thành thạo phần mềm; chưa xây
dựng được cơ sở dữ liệu địa chính đối với đất nông nghiệp. Hồ sơ địa chính trên
địa bàn tỉnh ở cả 3 cấp chưa thật sự đồng bộ.
Thứ
năm,
Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn nhiều bất cập như: Công tác
cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa còn
chậm do có nhiều biến động về diện tích, kích thước, chủ sử dụng đất, phải đo đạc
lập lại hồ sơ nhưng chưa có kinh phí thực hiện.
Thứ
sáu:
Công tác kiện toàn bộ máy quản lý tài nguyên và môi trường vẫn chưa đạt được
như mong muốn. Việc phân cấp quản lý giữa trung ương với địa phương chưa đồng bộ;
chưa phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương; lực lượng công chức được biên
chế chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao.
Những hạn chế
trong thực hiện Luật đất đai năm 2013 tại tỉnh Hải Dương do các nguyên nhân
sau:
Một
là,
quy định của pháp luật về quy hoạch, nhất là quy hoạch sử dụng đất có sự thay đổi,
bộc lộ một số hạn chế, khó khăn, bất cập trong công tác thực hiện các quy hoạch
chuyên ngành với quy hoạch sử dụng đất. Hệ thống chính sách, pháp luật về đất
đai được quan tâm đổi mới tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng kịp thời với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, chưa đồng bộ với các quy định của các lĩnh vực
khác như đầu tư, xây dựng, giao thông, nông nghiệp.
Hai
là,
các văn bản quy phạm pháp luật ban hành còn chậm so với đòi hỏi của thực tiễn,
số lượng văn bản quá nhiều, giữa các văn bản quy phạm pháp luật còn có một số
quy định chưa thống nhất, gây khó khăn cho việc áp dụng.
Ba
là,
việc thực hiện thủ tục hành chính trong công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất còn liên quan đến sự
phối hợp của nhiều ngành (Thuế, xây dựng, nông nghiệp, tài chính) dẫn đến việc
không chủ động hoàn thành thời gian của thủ tục hành chính theo quy định.
Bốn
là,
nhận thức và việc chấp hành pháp luật đất đai của người sử dụng đất còn hạn chế.
Như: việc biến động đất đai do chuyển quyền sử dụng đất của người dân diễn ra tự
phát không tuân thủ quy định pháp luật, không thực hiện đăng ký biến động đất
đai. Thực trạng chuyển nhượng đất nông nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân
không đúng đối tượng được nhận chuyển nhượng. Chưa có chế tài xử lý đủ mạnh để
răn đe người sử dụng đất cố tình vi phạm pháp luật về đất đai.
Năm
là,
công tác chỉnh lý biến động đất đai giữa các cấp đặc biệt là cấp xã chưa được
coi trọng, gây khó khăn cho việc xác định nguồn gốc đất đai, quản lý sử dụng đất.
Kinh phí đầu tư cho công tác lập hồ sơ địa chính, xây dựng cơ sở dữ liệu đất
đai còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu.
Sáu
là,
đất đai là lĩnh vực nhạy cảm, xẩy ra nhiều tranh chấp, khiếu nại, tố cáo hơn
các lĩnh vực khác.
Bẩy là,
lực lượng công chức được biên chế của ngành Tài nguyên và Môi trường các cấp
chưa tương xứng với chức năng nhiệm vụ được giao.
Từ những hạn chế
và nguyên nhân dẫn tới sự hạn chế nêu trên, để nâng cao hiệu quả thực hiện luật
đất đai năm 2013 tại tỉnh Hải Dương trong thời gian tới chúng tôi đề xuất một số
giải pháp, kiến nghị sau:
Thứ
nhất, tiếp
tục hoàn thiện pháp luật về đất đai:
Bảo đảm sự thống nhất giữa Luật đất đất đai với Luật quy hoạch, Luật nhà ở, Luật
đầu tư, Luật khiếu nại tố cáo để tránh chồng chéo gây khó khăn cho công tác quản
lý nhà nước về đất đai. Quy định chặt chẽ việc lấy ý kiến của nhân dân trong lập
và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Nghiên cứu bổ sung các quy định cụ
thể nhằm buộc các đơn vị có trách nhiệm trong lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất
phải đảm bảo chất lượng.
Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về đất đai: Thực hiện các giải pháp được đề cập tại
Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 về đẩy mạnh phổ biến, giáo dục chính
sách, pháp luật đất đai cho cộng đồng, nhất là đối với đồng bào vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và Chỉ thị số 01 năm 2014 của Thủ tướng
Chính phủ về triển khai thi hành Luật Đất. Nội dung tuyên truyền cần có trọng
tâm, các hình thức, công cụ truyền thông phải thường xuyên, đa dạng và linh hoạt.
Ngoài ra, cần nâng cao kỹ năng phổ biến, tuyên truyền pháp luật cho đội ngũ cán
bộ, công chức.
Thứ
ba, tiếp
tục cải cách thủ tục hành chính về đất đai: rà soát các văn bản quy phạm pháp
luật, loại bỏ các văn bản đã lạc hậu không còn phù hợp với yêu cầu quản lý của
tỉnh. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện việc thực hiện mô hình “một cửa”, “Một cửa
liên thông” để giải quyết các thủ tục hành chính. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai gắn với tin giản thủ
tục hành chính.
Thứ
tư, tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành luật pháp và giải quyết khiếu
nại tố cáo trong quản lý sử dụng đất đai: Tăng cường công tác kiểm tra, thanh
tra và hướng dẫn cho cấp phường, xã về chuyên môn trong công tác quản lý đất
đai để kịp thời ngăn chặn hành vi tham nhũng, gây lãng phí trong quản lý, sử dụng
đất. Tăng cường sự tham gia giám sát của người dân trong chấp hành pháp luật đất
đai, khi phát hiện các trường hợp vi phạm phải kiên quyết thu hồi và có kế hoạch
quản lý, sử dụng, tránh tái lấn chiếm hoặc thu hồi xong để không gây lãng phí.
Thứ
năm, đào
tạo nâng cao năng lực quản lý của cán bộ, công chức quản lý nhà nước về đất
đai, đặc biệt là ở cấp xã cần bổ sung các công chức được đào tạo đúng chuyên
ngành quản lý nhà nước về đất đai cho các xã, phường, thị trấn còn thiếu cán bộ
hoặc những nơi có cán bộ chưa được đào tạo đúng chuyên ngành. Có chính sách sử
dụng đội ngũ cán bộ địa chính cấp xã ổn định để đội ngũ này có kinh nghiệm quản
lý, nắm vững chính sách đất đai, am hiểu thực tế địa phương giúp giải quyết các
công việc liên quan đến đất đai nhanh chóng, hiệu quả.
Thứ
sáu, tăng
cường sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan: giữa Văn phòng Đăng ký
quyền sử dụngcủa tỉnh với UBND các huyện, thị xã, thành phố, Văn phòng Đăng ký
quyền sử dụng đất cấp huyện, UBND các xã, phường, thị trấn; giữa cơ quan tài
nguyên môi trường với Toà án, Viện kiểm sát, Chi cục thi hành án trong giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai.
Thứ
bẩy, tăng
cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất
đai:
Tăng cường tài chính cho công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính, quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất. Mua sắm các trang thiết bị phục vụ công tác địa chính được
thuận tiện, dễ dàng./.