na
MỪNG ĐẢNG QUANG VINH, ĐẤT NƯỚC ĐỔI MỚI, MỪNG XUÂN ẤT TỴ! 
Nghiên cứu trao đổi
CHỦ TRƯƠNG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM (NAY LÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM)
17/02/2025 07:52:00

Cuộc chiến tranh chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), là cuộc chiến không cân sức, cuộc chiến tựa như “châu chấu đá voi”, một phía là Thực dân Pháp với vũ khí hiện đại, tối tân; một phía là Việt Nam lực lượng mỏng, nhỏ lẻ, vũ khí thô sơ... Trên cơ sở thực tế đó, Đảng ta đã phát động cuộc chiến tranh nhân dân, nhằm phát huy sức mạnh nội lực, tinh thần đoàn kết nhấn chìm bè lũ cướp nước. Thắng lợi vẻ vang của cuộc chiến đã chứng minh vai trò lãnh đạo của Đảng ta đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đất nước, để lại bài học kinh nghiệm cho giai đoạn hiện nay.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Luật Quốc phòng 2018 khái niệm Chiến tranh nhân dân được quy định cụ thể như sau: "Chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”[1].

Chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh chính nghĩa do quần chúng nhân dân tiến hành, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của giai cấp tiến bộ, bằng mọi lực lượng, mọi hình thức đấu tranh, mọi thứ vũ khí có trong tay, vì lợi ích của nhân dân chống áp bức thống trị bên trong hoặc sự xâm lược của bên ngoài. Mục đích chính trị của chiến tranh nhân dân càng triệt để thì lực lượng tham gia càng đông đảo, mạnh mẽ. Chiến tranh nhân dân xuất hiện từ lâu trong lịch sử, khác với chiến tranh chỉ do quân đội tiến hành. Sức mạnh của chiến tranh nhân dân đã tạo điều kiện cho các dân tộc nhỏ có thể đánh thắng các đội quân xâm lược lớn mạnh hơn.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1945 đến năm 1954, Đảng ta đã phát động cuộc chiến tranh nhân dân với chủ trương: chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để làm rõ nội dung chiến tranh nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bài viết làm rõ một số nội dung sau:

Thứ nhất, vì sao trong cuộc chiến tranh chống Pháp Đảng ta phát động cuộc chiến tranh nhân dân?

Trước hết, trên cơ sở lý luận: chủ nghĩa Mác – Lênin nhấn mạnh về vai trò quần chúng trong lịch sử nói chung, lịch sử đấu tranh cách mạng nói riêng. Theo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin: “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, “quần chúng là động lực phát triển của cách mạng”, cách mạng muốn giành thắng lợi phải có đông đảo quần chúng tham gia, do đó phải động viên toàn dân kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nên phải dựa chắc vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh. Đảng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương thực hiện “kháng chiến toàn diện, trường kì và tự lực cánh sinh”, do đó, nhất thiết phải huy động toàn dân tham gia kháng chiến.

Tiếp theo, từ việc phân tích sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta đã đề ra chủ trương phù hợp.

Một là, Đảng ta đề ra đường lối chiến tranh nhân dân xuất phát từ truyền thống vốn có của dân tộc Việt Nam.

Nhân dân ta vốn có một truyền thống yêu nước nồng nàn, truyền thống ấy được thể hiện qua các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm qua hàng ngàn năm lịch sử. Mỗi khi có giặc ngoại xâm đến, truyền thống ấy là bùng lên nhấn chìm bè lũ cướp nước. Truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của dân tộc đã trở thành bệ phóng quan trọng đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

Hai là, sau cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn và thách thức, từ hoàn cảnh quốc tế.

Tình hình quốc tế sau năm 1945 có nhiều diễn biến phức tạp: ba dòng thác cách mạng đang phát triển mạnh mẽ, trong đó Liên Xô là trụ cột là thành trì của Chủ nghĩa xã hội, đấu tranh vì hòa bình, dân chủ trên thế giới; đối lập với đó là sự hiếu chiến của các nước đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ với chiến lược “toàn cầu phản cách mạng”… điểm nổi bật của tình hình thế giới sau năm 1945, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, đứng đầu là Mỹ với các nước đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ trên thế giới đứng đầu là Liên Xô. Đặc điểm này chi phối lớn đến cách mạng Việt Nam.

Ba là, xuất phát từ tương quan lực lượng giữa Việt Nam và thực dân Pháp lúc này quá chênh lệch muốn giành thắng lợi Việt Nam nhất thiết phải kháng chiến toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân.

Tình hình kinh tế - tài chính nghèo nàn, trống rỗng. Văn hóa – xã hội trình độ dân trí thấp, hơn 90% dân số mù chữ, trong khi đó tệ nạn xã hội như cờ bạc rượu chè, thuốc phiện của chế độ cũ để lại còn phát triển tràn lan. Giặc ngoại xâm đang hoành hành từ bắc chí nam. Miền Nam 10 vạn quân Anh, miền Bắc hơn 20 vạn quân Tưởng vào nước ta với danh nghĩa là quân đồng minh. Mỗi tên có mục đích riêng nhưng điều nguy hiểm với chính quyền cách mạng nước ta là chúng cùng có chung mục đích: xâm lược nước ta, đưa nhân dân ta trở cuộc sống nô lệ như trước đây. Đặc biệt, là thực dân Pháp đang thực hiện âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta. Với âm mưu đánh nhanh, nhanh chóng chiếm được Miền Nam Việt Nam. Mặc dù sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp gặp khó khăn về kinh tế, giảm uy tín về chính trị nhưng Pháp vẫn là nước mạnh, quân trang, quân bị, vũ khí hiện đại hơn Việt Nam rất nhiều.

Phân tích tình hình trên, Đảng ta đã phát động cuộc chiến tranh nhân dân: “kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh…”. Đây là cuộc chiến tiếp tục cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, giành độc lập hoàn toàn thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, dựa vào sức mình là chính nhưng đồng thời cần phải tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của cả dư luận tiến bộ trên thế giới tạo thành sức mạnh tổng hợp để đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù.

Thứ hai, mục đích cuộc chiến tranh nhân dân

Một là, lấy ít địch nhiều:

Đảng ta phát động chiến tranh nhân dân, khiến địch đông mà hóa thiếu, có sức mạnh lớn mà không phát huy được tác dụng, có sở trường mà không được thể hiện, lại bị sa lầy trong biển lửa của toàn dân, lúng túng và bị động trong một kiểu chiến tranh không rõ đâu là tiền tuyến, đâu là hậu phương, một kiểu chiến tranh xen kẽ triệt để.

Điều này đã được chứng minh qua những năm chiến tranh từ 1945 đến năm 1950, sau chiến thắng Việt Bắc. Việt Nam trong thế bị động đối phó với chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh và sự lớn mạnh của thực dân Pháp, từ trận Pháp đánh vào thủ đô Hà Nội, chiến khu Việt Bắc. Từ năm 1950 trở đi, Việt Nam đã vươn lên thế chủ động đánh Pháp khi Thực dân Pháp định làm một cuốc tấn công lên căn cứ địa lần hai. Với chiến thắng của chiến dịch Biên giới, Việt Nam đã vươn lên thế chủ động, buộc pháp phải điều chỉnh chiến lược từ đánh nhanh, thắng nhanh sang đánh lâu dài “dùng người Việt trị người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Trong kế hoạch Nava, Việt Nam từng bước phá tan kế hoạch Nava, từ chỗ Pháp tập trung quân đã phải phân tán lược lượng địch ra nhiều nơi, từ đó chọn nơi trọng yếu để tác chiến.

Hai là, chiến tranh nhân dân khoét sâu những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.

Sự tài tình của Đảng ta là “biết mình, biết ta”. Trong cuộc chiến tranh chống Pháp, Đảng ta đã biết khoét sau vào mâu thuẫn của kẻ thù đó là: mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung, giữa phòng ngự và tiến công; giữa đánh nhanh và đánh kéo dài; làm cho lực lượng, phương tiện của đối phương ngày càng bị hao mòn, ý chí xâm lược ngày càng sa sút. Từ kế hoạch Rơ ve, đến kế hoạch Đờlátđờtátxinhi, đặc biệt là kế hoạch Na va, Pháp đã từng bước bị rơi vào thế bị động và thất bại.

Thứ ba, Đảng tổ chức thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân

Với tinh thần: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc"; thực hiện đánh địch bằng mọi thứ vũ khí, phương tiện với tinh thần "Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc".

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng ta đã phát huy được sở trường đánh của quân và dân ta. Đó là sự kết hợp tác chiến của lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động; của tác chiến du kích với tác chiến chính quy; của cách đánh tiêu hao sinh lực địch một cách rộng khắp với cách đánh tập trung tiêu diệt từng bộ phận địch; kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hóa, tâm lý, tư tưởng, ngoại giao...; lấy đấu tranh quân sự, thắng địch trên chiến trường là nhân tố quyết định; kiên quyết đánh bại ý chí xâm lược của địch, chủ động kết thúc chiến tranh trong thế có lợi.

Chủ trương chiến tranh nhân dân không chí có ý nghĩa đối với sự nghiệp cách mạng những năm tháng kháng chiến chống Phấp mà còn có ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đường lối về chiến tranh nhân dân, cũng chính là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng ta vận dụng sáng tạo và đề ra những giải pháp chiến lược cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

Trong giai đoạn hiện nay để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc cần phải chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, dựa vào dân, phát huy sức mạnh toàn dân để xây dựng quốc phòng. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trước sự chống phá của các thế lực thù địch đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, các lực lượng phản động tìm mọi cách phủ nhận vai trò của Đảng ta và sự nghiệp cách mạng nước ta bằng rất nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, với nhiều hình thức, phương pháp. Do vậy, phát huy sức mạnh toàn dân vô cùng quan trọng. Nếu không có sự hợp sức của toàn thể nhân dân, sẽ tạo ra những cơ hội, kẽ hở cho kẻ địch tấn công, chống phá trên mọi lĩnh vực, nhiều phương tiện, phương pháp... Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân trong công cuộc xây dựng và bảo về Tổ quốc là đi đúng xu hướng, quy luật phát triển của tự nhiên xã hội, huy động tổng hợp sức mạnh nội lực của cả nướchoàn thành mục tiêu, lý tưởng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Tóm lại: chiến tranh nhân dân - phát huy sức mạnh toàn dân là chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp quy luật, với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ đó làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc, đồng thời là bài học kinh nghiệm cho Đảng tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa đất nước Việt Nam ngày càng càng giầu đẹp, văn minh./.

Giảng viên Thân Thị Cương



[1] Điều 2 Luật Quốc phòng 2018, ngày ban hành 08/06/2018, Tr1.