na
NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG 80 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 - 22/12/2024) VÀ 35 NĂM NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (22/12/1989 - 22/12/2024)! 
Nghiên cứu trao đổi
Phân tích giá trị lý luận củng cố niềm tin khoa học cho việc lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay
20/06/2021 09:34:25

Phạm Thị Phương Thanh

Khoa Lý luận cơ sở

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa có bài viết quan trọng: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" được phổ biến rộng rãi trên truyền thông truyền hình và báo chí. Nội dung bài viết là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn: nói thực tiễn mà rất lý luận, nói lý luận trên nền thực tiễn sinh động. Nghiên cứu bài viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ về lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa (XHCN), nâng cao giác ngộ chính trị, tích cực đấu tranh, phê phán bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam.

Trong khuôn khổ bài viết này, tôi tập trung phân tích làm rõ giá trị lý luận được đề cập trong bài viết từ đó củng cố niềm tin khoa học về CNXH và việc lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.

Trong bài viết Tổng bí thư đã sử dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội (HTKT-XH) của Chủ  nghĩa Mác – Lênnin làm tiền đề, là điểm tựa lý luận khách quan, khoa học để giải thích các vấn đề thực tiễn đặt ra. Điểm hay, sáng tạo ở bài viết của Tổng bí thư đó là không dùng lý luận để giải thích cho lý luận mà đã dùng thực tiễn để chứng minh tính đúng đắn của lý luận, để lý giải cho câu hỏi CNXH là gì? vì sao chúng ta lựa chọn tư tưởng xây dựng CNXH dựa trên học thuyết Mác-Lênin. Tính đúng đắn của học thuyết HTKT-XH được chính thực tiễn cho câu trả lời. Điều này mang tính thuyết phục rất cao, khi lý luận được thực tiễn kiểm định.

Vậy những giá trị lý luận được đề cập trong bài viết là những vấn đề gì?

1. Lựa chọn con đường đi lên CNXH là khách quan, hợp quy luật

            Thực tế cho thấy Chủ nghĩa tư bản (CNTB) hiện nay vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó (khủng hoảng về kinh tế, xã hội, đặc biệt về y tế dưới tác động của đại dịch Covid-19; khủng hoảng lương thực, năng lượng…). Bản thân thị trường tự do của CNTB không thể giúp giải quyết được những khó khăn và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó, không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ TBCN.

Điều này chứng minh cho tính đúng đắn về lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênnin khi đề cập đến sự thay thế lẫn nhau của các HTKT-XH như một quá trình lịch sử tự nhiên. Sự thay thế này quyết định bởi quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Với bản chất của CNTB, khi trình độ kinh tế càng phát triển càng kéo theo mâu thuẫn, xung đột trong xã hội. Biểu hiện bên ngoài của các quy luật này chính là những gì CNTB đang trải qua hiện nay cả về mặt kinh tế và chính trị -xã hội, xuất hiện những mâu thuẫn về kinh tế- xã hội, những khủng hoảng đang đặt ra, cần phải giải quyết. Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển là hệ quả tất yếu để giải quyết mâu thuẫn kinh tế-xã hội. Giải quyết mâu thuẫn này sẽ dẫn tới sự thay thế của CNTB bởi một HTKT-XH cao hơn là CNCS (giai đoạn đầu là CNXH). Cuộc cách mạng XHCN nổ ra là tất yếu. Một xã hội mới cao hơn CNTB ra đời là tất yếu.

Như vậy, đi lên CNXH không nằm ngoài quy luật phát triển của HTKT-XH trong xã hội loài người. Mô hình CNXH mà Chủ nghĩa Mác – Lênnin đặt ra chính là những mong ước tốt đẹp, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi. Nó khẳng định tính đúng đắn và giá trị trường tồn của Chủ nghĩa Mác – Lênnin đặt ra cho thực tiễn những nhiệm vụ, phương hướng để tiếp tục phấn đấu thực hiện những lý tưởng, khát vọng mang tính chân lý ấy.

2- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu

Chủ nghĩa Mác – Lênnin khẳng định: Sự ra đời của HTKT-XH Cộng sản chủ nghĩa (CSCN) là tất yếu, khách quan, hợp quy luật, chẳng những diễn ra bằng con đường tuần tự (từ thấp đến cao trong tiến trình lịch sử tự nhiên) mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện nhất định. Như vậy, không nhất thiết phải trải qua CNTB mới đủ điều kiện để quá độ lên CNCS (giai đoạn đầu là CNXH) mà vẫn có thể “bỏ qua” CNTB để quá độ lên CNXH, thậm chí những nước còn lạc hậu, kém phát triển cũng có thể quá độ đi lên CNXH  (Lênin gọi là “quá độ đặc biệt của đặc biệt”) khi thoả mãn những điều kiện nhất định.

Trên cơ sở tiếp thu giá trị của Chủ nghĩa Mác – Lênnin và đặc điểm riêng của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta” (1). Về thời kỳ quá độ, Người nói: “Một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái mới, cái đang tiến bộ nhất định thắng” (2).

Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênnin và tư tưởng HCM về quá độ đi lên CNXH là tất yếu ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về CNXH và thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ” tại Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta xác định: "Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản" (3). Đến Đại hội IX, Đảng ta chỉ ra cụ thể hơn: "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại" (4). Tất nhiên, bỏ qua chế độ TBCN phải được nhận thức như đồng chí Tổng Bí thư đã nhấn mạnh: "Nói bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ XHCN, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển CNTB. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển" (5).

Như vậy, Đảng cộng sản Việt Nam luôn quán triệt học thuyết Mác – Lênnin, từng bước thực hiện những điều kiện để “bỏ qua” CNTB đi lên CNXH. Đảng ta cũng đã nhận thức ngày càng rõ hơn việc “bỏ qua” cái gì và “không bỏ qua” những gì từ giá trị của CNTB. Điều này ngày càng làm rõ hơn về đặc trưng và nội dung con đường đi lên CNXH ở Việt Nam

3- Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

CNXH theo quan điểm của CN M-LN là giai đoạn đầu của HTKT-XH CSCN. CNXH tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất công. Có thể nói, công cuộc xây dựng CNXH của Đảng và nhân dân ta là quá trình không ngừng vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, tại Đại hội XI đặc trưng về CNXH đã được bổ sung và phát triển rõ nét, cụ thể hơn tại “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” (bổ sung, phát triển năm 2011) với 8 đặc trưng.

Trong bài viết của mình, Tổng bí thư cũng không sa đà vào lý luận mà đi đến đặc trưng cốt lõi của CNXH, suy cho cùng tất cả những đặc trưng của CNXH đều hướng tới con người, do đó Tổng bí thứ khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”(6). Tổng Bí thư đã đem chủ nghĩa nhân văn vào quan niệm khoa học về CNXH, nhân tố quan trọng sâu xa nhất của CNXH là con người, đạo đức, văn hóa. CNXH Việt Nam mang tính nhân dân, tính dân tộc và giá trị nhân văn, trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân. Chính từ phương diện này, Tổng Bí thư đã làm phong phú, sâu sắc thêm chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học.

4. Sáng tạo trong lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Trên thế giới đã có nhiều mô hình phát triển kinh tế thị trường như kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, kinh tế thị trường xã hội ở Cộng hòa Liên bang Ðức, kinh tế thị trường cộng đồng trách nhiệm (hay phối hợp) ở Nhật Bản, kinh tế thị tr­ường nhà nư­ớc phúc lợi ở Thụy Ðiển, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc… Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường xuất hiện mô hình kinh tế thị trường mới - kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Đúng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, "Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng" (5) của Đảng. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì nền kinh tế là nền kinh tế quá độ, vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường của thế giới vừa vận dụng, phát triển sáng tạo cho phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam.

Về đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đại hội XIII (2021) đã chỉ ra: "Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế "(6)  Các thành phần kinh tế hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành hữu cơ quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng tồn tại, phát triển lâu dài.

Trên đây là những nội dung cốt lõi trong sự phát triển lý luận về CNXH Việt Nam của Đảng ta được thể hiện xúc tích, dễ hiểu thông qua bài viết của Tổng bí thư. Sau 35 năm đổi mới, lý luận về đường  đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường lên CNXH của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Thực tiễn đổi mới cũng chứng tỏ phát triển theo mô hình CNXH Việt Nam mà Đảng đã đề ra không chỉ có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội, môi trường tốt hơn nhiều so với các nước đi theo mô hình phát triển khác. Điều đó cũng chứng tỏ sự lựa chọn con đường phát triển XHCN và gắn độc lập dân tộc với CNXH là sự lựa chọn đúng đắn hợp quy luật khách quan và thực tiễn thời đại.

Trích dẫn:

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8. Nxb Chính trị quốc gia. H, 2011. Tr.226; 326; 294; 293.

(2) Hồ Chí Minh: Sđd, t.11. tr.441; 238.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia. H. 1991, tr. 320.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia. H. 2011, tr. 435.

(5) PGS.TS Nguyễn Phú Trọng: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".

(6) Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tập 1, tr. 128 – 129.