Phạm Thị Phương
Thanh
Khoa Lý luận cơ
sở
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa có bài viết quan
trọng: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" được phổ biến rộng rãi
trên truyền thông truyền hình và báo chí. Nội dung bài viết là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực
tiễn: nói thực tiễn mà rất lý luận, nói lý luận trên nền thực tiễn sinh động.
Nghiên cứu bài viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ về lý tưởng, mục tiêu xã hội
chủ nghĩa (XHCN), nâng cao giác ngộ chính trị, tích cực đấu tranh, phê phán bác
bỏ các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH)
ở Việt Nam.
Trong
khuôn khổ bài viết này, tôi tập trung phân tích làm rõ giá trị lý luận được đề
cập trong bài viết từ đó củng cố niềm tin khoa học về CNXH và việc lựa chọn con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.
Trong
bài viết Tổng bí thư đã sử dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội (HTKT-XH) của Chủ nghĩa Mác – Lênnin làm tiền đề, là điểm tựa
lý luận khách quan, khoa học để giải thích các vấn đề thực tiễn đặt ra. Điểm
hay, sáng tạo ở bài viết của Tổng bí thư đó là không dùng lý luận để giải thích
cho lý luận mà đã dùng thực tiễn để chứng minh tính đúng đắn của lý luận, để lý
giải cho câu hỏi CNXH là gì? vì sao chúng ta lựa chọn tư tưởng xây dựng CNXH
dựa trên học thuyết Mác-Lênin. Tính đúng đắn của học thuyết HTKT-XH được chính
thực tiễn cho câu trả lời. Điều này mang tính thuyết phục rất cao, khi lý luận
được thực tiễn kiểm định.
Vậy
những giá trị lý luận được đề cập trong bài viết là những vấn đề gì?
1.
Lựa chọn con đường đi lên CNXH là khách quan, hợp quy luật
Thực
tế cho thấy Chủ nghĩa tư bản (CNTB) hiện nay vẫn không thể khắc phục được những
mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó (khủng hoảng về kinh tế, xã hội, đặc biệt về y
tế dưới tác động của đại dịch Covid-19; khủng hoảng lương thực, năng lượng…). Bản
thân thị trường tự do của CNTB không thể giúp giải quyết được những khó khăn và
trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước
nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu. Các cuộc
khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh
tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó, không thể giải quyết được một cách
triệt để trong khuôn khổ của chế độ TBCN.
Điều
này chứng minh cho tính đúng đắn về lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênnin khi đề
cập đến sự thay thế lẫn nhau của các HTKT-XH như một quá trình lịch sử tự
nhiên. Sự thay thế này quyết định bởi quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Với bản chất của CNTB, khi
trình độ kinh tế càng phát triển càng kéo theo mâu thuẫn, xung đột trong xã
hội. Biểu hiện bên ngoài của các quy luật này chính là những gì CNTB đang trải
qua hiện nay cả về mặt kinh tế và chính trị -xã hội, xuất hiện những mâu thuẫn
về kinh tế- xã hội, những khủng hoảng đang đặt ra, cần phải giải quyết. Các
phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển
là hệ quả tất yếu để giải quyết mâu thuẫn kinh tế-xã hội. Giải quyết mâu thuẫn
này sẽ dẫn tới sự thay thế của CNTB bởi một HTKT-XH cao hơn là CNCS (giai đoạn
đầu là CNXH). Cuộc cách mạng XHCN nổ ra là tất yếu. Một xã hội mới cao hơn CNTB
ra đời là tất yếu.
Như
vậy, đi lên CNXH không nằm ngoài quy luật phát triển của HTKT-XH trong xã hội
loài người. Mô hình CNXH mà Chủ nghĩa Mác – Lênnin đặt ra chính là những mong
ước tốt đẹp, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã
lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi. Nó khẳng định tính đúng đắn và
giá trị trường tồn của Chủ nghĩa Mác – Lênnin đặt ra cho thực tiễn những nhiệm
vụ, phương hướng để tiếp tục phấn đấu thực hiện những lý tưởng, khát vọng mang
tính chân lý ấy.
2-
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là tất
yếu
Chủ
nghĩa Mác – Lênnin khẳng định: Sự ra đời của HTKT-XH Cộng sản chủ
nghĩa (CSCN) là tất yếu, khách quan, hợp quy luật, chẳng những diễn ra bằng con
đường tuần tự (từ thấp đến cao trong tiến trình lịch sử tự nhiên) mà còn bao
hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện nhất định. Như vậy, không nhất thiết phải trải qua CNTB mới đủ điều
kiện để quá độ lên CNCS (giai đoạn đầu là CNXH) mà vẫn có thể “bỏ qua” CNTB để
quá độ lên CNXH, thậm chí những nước còn lạc hậu, kém phát triển cũng có thể
quá độ đi lên CNXH (Lênin gọi là “quá độ
đặc biệt của đặc biệt”) khi thoả mãn những điều kiện nhất định.
Trên cơ sở tiếp thu giá
trị của Chủ nghĩa Mác – Lênnin và đặc điểm riêng của Việt Nam khi bước vào thời
kỳ quá độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát
triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng
sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ
nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta” (1). Về thời kỳ quá độ, Người nói: “Một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh
gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới,
giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển.
Kết quả là cái mới, cái đang tiến bộ nhất định thắng” (2).
Trên
cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênnin và tư tưởng HCM về quá độ đi lên CNXH
là tất yếu ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng
đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về CNXH và thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Trong “Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ” tại Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta
xác định: "Nước ta quá độ lên CNXH,
bỏ qua chế độ tư bản" (3). Đến Đại hội IX, Đảng ta chỉ
ra cụ thể hơn: "Con đường đi lên của
nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại" (4). Tất nhiên, bỏ qua
chế độ TBCN phải được nhận thức như đồng chí Tổng Bí thư đã nhấn mạnh:
"Nói bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột
tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính
trị không phù hợp với chế độ XHCN, chứ không phải bỏ qua cả những
thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển CNTB.
Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm
khoa học, phát triển" (5).
Như vậy, Đảng cộng sản Việt Nam luôn
quán triệt học thuyết Mác – Lênnin, từng bước thực hiện những điều kiện để “bỏ
qua” CNTB đi lên CNXH. Đảng ta cũng đã nhận thức ngày càng rõ hơn việc “bỏ qua”
cái gì và “không bỏ qua” những gì từ giá trị của CNTB. Điều này ngày càng làm
rõ hơn về đặc trưng và nội dung con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
3-
Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
CNXH theo quan điểm của CN M-LN là giai
đoạn đầu của HTKT-XH CSCN. CNXH tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó
về các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm giải phóng con người
khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất công. Có
thể nói, công cuộc xây dựng CNXH của Đảng và nhân dân ta là quá trình
không ngừng vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, tại Đại hội XI đặc trưng về CNXH đã được bổ sung
và phát triển rõ nét, cụ thể hơn tại “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH” (bổ sung, phát triển năm 2011) với
8 đặc trưng.
Trong bài viết của mình, Tổng bí thư cũng không sa đà vào lý luận
mà đi đến đặc trưng cốt lõi của CNXH, suy cho cùng tất cả những đặc trưng của
CNXH đều hướng tới con người, do đó Tổng bí thứ khẳng định: “Chúng ta cần một
xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi
nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển
về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng
cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn
kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”(6). Tổng Bí thư đã đem chủ nghĩa
nhân văn vào quan niệm khoa học về CNXH, nhân tố quan trọng sâu xa nhất của
CNXH là con người, đạo đức, văn hóa. CNXH Việt Nam mang tính nhân dân,
tính dân tộc và giá trị nhân văn, trên lập trường, quan điểm của giai cấp công
nhân. Chính từ phương diện này, Tổng Bí thư đã làm phong phú, sâu sắc thêm chủ
nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học.
4.
Sáng tạo trong lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Trên thế giới đã có nhiều mô hình phát
triển kinh tế thị trường như kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, kinh tế thị trường
xã hội ở Cộng hòa Liên bang Ðức, kinh tế thị trường cộng đồng trách nhiệm (hay
phối hợp) ở Nhật Bản, kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Ðiển, kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc… Lần đầu tiên trong lịch sử
xã hội loài người, trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường xuất hiện mô
hình kinh tế thị trường mới - kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đúng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã khẳng định, "Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của
Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng" (5) của
Đảng. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì nền kinh tế là nền kinh tế
quá độ, vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường của
thế giới vừa vận dụng, phát triển sáng tạo cho phù hợp với điều kiện thực tiễn
Việt Nam.
Về đặc điểm của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, Đại hội XIII (2021) đã chỉ ra: "Nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế "(6)
Các thành phần kinh tế hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, hoạt động theo
pháp luật đều là bộ phận hợp thành hữu cơ quan trọng của nền kinh tế quốc dân,
cùng tồn tại, phát triển lâu dài.
Trên đây là những nội
dung cốt lõi trong sự phát triển lý luận về CNXH Việt Nam của Đảng ta được thể
hiện xúc tích, dễ hiểu thông qua bài viết của Tổng bí thư. Sau 35 năm đổi mới,
lý luận về đường đổi mới, về chủ nghĩa
xã hội và con đường lên CNXH của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được
hiện thực hóa. Thực tiễn đổi mới cũng chứng tỏ phát triển theo mô hình CNXH Việt
Nam mà Đảng đã đề ra không chỉ có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết
tốt các vấn đề văn hóa, xã hội, môi trường tốt hơn nhiều so với các nước đi
theo mô hình phát triển khác. Điều đó cũng chứng tỏ sự lựa chọn con đường phát
triển XHCN và gắn độc lập dân tộc với CNXH là sự lựa chọn đúng đắn hợp quy luật
khách quan và thực tiễn thời đại.
Trích dẫn:
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
t.8. Nxb Chính trị quốc gia. H, 2011. Tr.226; 326; 294; 293.
(2) Hồ Chí Minh: Sđd, t.11. tr.441; 238.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn
tập, Nxb Chính trị quốc gia. H. 1991, tr. 320.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn
tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia. H. 2011, tr. 435.
(5) PGS.TS
Nguyễn Phú Trọng: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".
(6) Văn kiện Ðại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tập 1, tr. 128
– 129.