Ts. Phạm Xuân Thiên -
Trưởng khoa Lý luận cơ sở
Mỗi dịp tháng Năm về, những người cộng sản và nhân loại tiến bộ trên khắp thế giới lại xúc động
tưởng nhớ và long trọng kỷ niệm ngày sinh C.Mác (5/5/1818 - 5/5/2021), Người đã
cùng với Ph.Ăngghen mãi đi vào lịch sử nhân loại như những người sáng lập ra chủ
nghĩa cộng sản khoa học. Lần giở lại lịch sử nhân loại những năm đầu thế kỷ
XIX, sự ra đời của Chủ nghĩa Mác, trong đó có Triết học Mác đã tạo ra một bước
ngoặt trong lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung và lịch sử Triết học nói
riêng. Từ đó đến nay, mặc dù có không ít người đã và đang ra sức tìm mọi cách
hòng phủ nhận hay chí ít cũng là hạ thấp vai trò, giá trị của Triết học Mác.
Tuy nhiên, vượt qua những biến cố và thăng trầm của lịch sử cũng như những thử
thách nghiệt ngã của thời gian, Triết học Mác vẫn giữ nguyên giá trị thời đại,
là một học thuyết khoa học và cách mạng nhất. Với việc sáng lập ra Triết học
Mác, C.Mác đã vượt lên trên được tư tưởng của tất cả các nhà Triết học trước
đây tạo ra được một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. Nếu gạt bỏ những
suy diễn và định kiến thì cuộc cách mạng đó xứng đáng được gọi là vĩ đại.
1. MỞ ĐẦU
Những năm đầu thế kỷ XIX, phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được hình thành và phát triển trên hầu hết các quốc
gia châu Âu. Cùng với thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản ở một số nước (Anh,
Pháp, … ) giai cấp tư sản bước lên vũ đài chính trị như một giai cấp tiên
phong, đại diện cho xu hướng phát triển của thười đại. Tuy nhiên, những thành tựu
phát triển kinh tế vượt bậc không đồng nghĩa với những tiến bộ xã hội. Lý tưởng
dân chủ và cách mạng của cuộc cách mạng tư sản đã bị thay thế bởi những lợi ích
cá nhân. Có thể thấy, ngay từ đầu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chứa
đựng những hạn chế cố hữu của nó. Giai cấp tư sản đã từng “đóng vai trò hết sức
cách mạng trong lịch sử” thì giờ đây sứ mệnh lịch sử đó đang mất dần. Trong khi
đó, chính sự phát triển của đại công nghiệp đã làm cho giai cấp vô sản (sau đây
sẽ gọi là giai cấp công nhân) trưởng thành về mọi mặt. Các phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản và chế độ tư bản cũng ngày một
dâng cao, từng bước trở thành phong trào đấu tranh mang tính quần chúng và hình
thức chính trị. Từ đó, đặt ra một nhu cầu cần có một lý luận thực sự khoa học
và cách mạng soi đường.
Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đặc
biệt là tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán có tác dụng to lớn
trong việc lên án, phê phán bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nói lên tiễng
nói bênh vực những người lao động nhưng nhìn chung là xuất phát từ những mong
muốn chủ quan; không thấy được con đường, lực lượng, phương pháp, cách thức, …
để xây dựng một trật tự xã hội mới. Trong bối cảnh đó, sự ra đời của Triết học
Mác trở thành một tất yếu khách quan, đáp ứng những đòi hỏi của phong trào công
nhân trong tình hình mới. Giai cấp công nhân đã tìm thấy ở Triết học Mác vũ khí
tinh thần của cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và chế độ tư bản. Đồng
thời, triết học Mác đã có một sức mạnh vật chất để cải biến hiện thực.
2. NHỮNG THÀNH TỰU CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC TẠO NÊN BƯỚC NGOẶT
CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Triết học có một lịch sử phát triển lâu
dài từ thời kỳ cổ đại, Triết học ra đời vì nó cần cho đời sống xã hội và cùng
với đời sống xã hội Triết học không ngừng được bổ sung và phát triển hoàn
thiện. Với ý nghĩa như thế, Triết học Mác là sản phẩm của lịch sử, C. Mác và
Ph. Ăng ghen đã kế thừa những thành tựu của Triết học trước đó và bổ sung, phát
triển bằng những thành tựu của khoa học. Mà trực tiếp là những tư tưởng Triết
học và trào lưu lý luận ở châu Âu cuối
thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX như: Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị Anh
và chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán Pháp. Tuy nhiên, bằng hoạt động lý
luận và hoạt động thực tiễn tích cực, C. Mác và Ph, Ăng ghen đã thực hiện một
bước ngoặt cách mạng trong lịch sử Triết học với những thành tựu to lớn. Điều
này được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
Một
là, sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng khoa học thành chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Từ khi ra đời, lịch sử Triết học là
lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; giữa hai phương
pháp biện chứng và siêu hình. Cố nhiên, trước khi có triết học Mác, một số học
thuyết duy vật, nhất là Triết học Hy Lạp - La Mã thời kỳ cổ đại đã xem xét thế
giới trong mối liên hệ và sự vận động những nhìn chung đều xuất phát từ sự quan
sát trực tiếp nên không tránh khải tính trực quan. Cả chủ nghĩa duy vật lẫn
phương pháp biện chứng đều còn ở trình độ thấp, thô sơ, chất phác. Cho đến thời
kỳ Phục hưng và Cận đại, chủ nghĩa duy vật đã có bước phát triển vượt bậc so
với chủ nghĩa duy vật Hy Lạp - La Mã thời kỳ cổ đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy
vật thời kỳ này, ngay cả với triết học L. Phơ - Bách (được coi là đỉnh cao của
chủ nghĩa duy vật trước Mác) lại càng lún sâu vào phương pháp siêu hình, máy
móc.
Đối với phương pháp biện chứng, các nhà
triết học biện chứng đã đối lập phương pháp biện chứng với phương pháp siêu
hình, tạo ra một giai đoạn phát triển về chất trong phương pháp nhận thức. Tuy
nhiên, phương pháp biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ duy tâm, thần
bí. Đặc biệt là G.W.f. Hêghen (được coi là đỉnh cao của phép biện chứng trước
Mác) lại dựa trên cơ sở lập trường duy tâm.
Sự tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng đã làm cho cả chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng đều không
thể vượt qua được những hạn chế nhất định và không thực sự trở thành khoa học.
C.Mác - Ph. Ăng ghen là những người đã giải thoát phép biện chứng khỏi cái vỏ
duy tân thần bí, đem phép biện chứng trả về với thực chất của nó là thuộc tính
của thế giới vật chất. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phương pháp
biện chứng thành chủ nghĩa duy vật đã đưa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
lên một tầm cao mới và thực sự trở thành khoa học. Cần nhấn mạnh rằng, trong
Triết học Mác, sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng không
phải là một sự lắp ghép cơ học, giản đơn mà là một sự phát triển sáng tạo. Đúng
như C. Mác đã khẳng định: “Phép biện
chứng của tôi không những khác phương pháp của G.W.f. Hêghen về căn bản mà còn đối lập hẳn với phương pháp
ấy nữa” (1).
Hai là, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
Trước khi có
Triết học Mác, chủ nghĩa duy vật đã
đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội, của khoa học và triết
học. Tuy nhiên, ngay cả L. Phơ - bách là một nhà triết học rất duy vật về tự
nhiên nhưng khi dứng trước lịch sử - xã hội, ông không còn là nhà triết học duy
vật nữa. Như vậy, đó vẫn là chủ nghĩa duy vật không triệt để. C. Mác và Ph. Ăng ghen là những
người đầu tiên đã đem những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng
vào giải quyết những vấn đề xã hội và sang tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Triết học Mác đã giải thích một cách duy vật, khoa học không chỉ thế giới tự
nhiên, mà cả lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đẩy chủ nghĩa duy tâm ra
khỏi nơi ẩn nấp cuối cùng của nó trong lĩnh vực xã hội. Với việc vạch ra được những quy
luật phát triển của lịch sử loài người, tiêu biểu là: quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; cơ
sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội và khẳng định sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội
như là một quá trình lịch sử - tự nhiên,…
Triết học Mác đã mở ra một thời kỳ mới trong nghiên cứu lịch sử - xã hội. V.I.Lê-nin đánh giá: "Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là
thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn
chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến
nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị; lý luận đó chỉ cho ta thấy rằng,
do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức đời sống xã hội
này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội
khác, cao hơn" (2).
Ba là, Triết học Mác đã khắc phục được
sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn, trở thành cơ sở khoa học cho
nhận thức và cải tạo thế giới.
Trước khi có triết học Mác, nhìn chung các nhà triết học thường tập trung
giải thích thế giới, mà ít chú ý tới cải tạo thế giới. Đúng như C.Mác đã từng
nhận định: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề
là cải tạo thế
giới” (3).
Tất nhiên, không
thể phủ nhận rằng, đã có một số nhà
triết học đã đề cập đến vấn đề cải tạo thế giới nhưng thường rơi vào không
tưởng. Đó hoặc là dựa vào những lực lượng siêu nhiên, thần bí, hoặc dựa vào dựa
vào các yếu tố chủ quan giáo dục, hay đạo đức, v.v.. Thậm chí, L.Phơ - bách cũng
chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn
thì chỉ được ông xem xét và xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu
mà thôi. C.Mác đã nhận định: “Khuyết điểm
chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả chủ nghĩa duy
vật của L. Phơ - bách - là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận
thức dưới hình thức khách thể hay
hình thức trực quan, chứ
không được nhận thức là hoạt động
cảm giác của con người, là thực
tiễn” (4).
C. Mác - Ph. Ăngghen đã không phủ nhận
các nhà triết học trước đó mà kế thừa
một cách có chọn lọc. Luận điểm của C. Mác đã nói lên sự khác biệt về chất giữa
Triết học Mác với các trào lưu triết học trước đây, kể các các học thuyết triết
học mà điểm xuất phát và lập trường có tính duy vật. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt Triết
học Mác là cải tạo thế giới, không có sự đối lập giữa triết học với hoạt động
thực tiễn của con người, trước hết là hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản. Điều
này đã được C.Mác khẳng định: “Giống như
triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học
là vũ khí tinh thần của
mình”(5).
3. KẾT LUẬN
Với
những thành tựu cơ bản nêu trên, Triết học Mác đã ghi dấu ấn quan trọng và ý
nghĩa thời đại trong lịch sử triết học và lịch sử nhân loại. Từ khi ra đời,
Triết học Mác trở thành thế giới quan của giai cấp công nhân. Sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Mác nói chung và Triết học Mác nói riêng với phong trào công nhân đã tạo nên bước
chuyển của phong trào công nhân từ tự phát sang tự giác. Nhờ kế thừa và phát
triển sáng tạo những thành tựu của triết học và khoa học trong lịch sử nhân
loại, Triết học Mác trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho
nhận thức và cải tạo thế giới, cổ vũ cho khoa học phát triển. Sự ra đời của
Triết học Mác cũng đặt dấu chấm hết cho những tham vọng coi triết học là chìa
khóa vạn năng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội; và rằng, triết học là
khoa học của mọi khoa học.
Những thành tựu làm nên bước ngoặt cách
mạng trong lịch sử triết học đã đưa Triết học Mác trở thành cơ sở lý luận cho
việc đề ra đường lối chiến lược, sách lược của giai cấp công nhân trong cuộc
đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại. Có thể khẳng định, cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực
hiện vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn trong việc phát triển triết học Mác - Lênin
trong thời đại ngày nay.
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển
mạnh mẽ cúa khoa học và công nghệ không chỉ đặt ra một nhu cầu đấu tranh bảo vệ
những giá trị của Triết học Mác; đồng thời, với tinh thần của chủ nghĩa duy vật
biện chứng đòi hỏi giai cấp công nhân và các Đảng cộng sản cần phải vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác nói chung và Triết học Mác nói riêng như V.I.
Lênin đã từng căn dặn: “Chúng ta không hề
coi lý luận của C. Mác như là một cái gì
xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm. Trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ
đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phát triển
hơn nữa về mọi mặt nếu họ không muốn trở thành lạc hậu so với cuộc sống”
(6).
Chú thích:
(1) C.Mác, Tư bản, tập 1, phần 1, Nxb Tiến bộ M, ST, H,
1984, tr.21.
(2)
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 23. Nxb,Tiến bộ, M, 1980, tr.53.
(3)
C. Mác - Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 12.
(4)
C. Mác - Ph. Ăngghen, L. Phơ - bách và sự cáo chung của triết học cổ điền Đức,
Nxb Sự thật, H, 1969, tr. 81.
(5)
Các Mác - Ph. Ăngghen, Những tác phẩm ban đầu, Nxb, Tiến bộ, M, 1956, tr. 562.
(6)
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 29, Nxb, Tiến bộ, M, 1980, tr. 232.