Đảng bộ tỉnh Hải Dương từ khi ra đời (10/6/1940) đến nay đã phát huy vai trò lãnh đạo cách mạng của tỉnh nhà, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của cả nước. Trong quá trình lãnh đạo đó, từ năm 1954-1975, Đảng bộ Tỉnh Hải Dương đã lãnh đạo nhân dân trong tỉnh hoàn thành sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tiền tuyến, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi vẻ vang cho dân tộc.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến căn cứ tạm thời. Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đnahs đuổi đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Đây là nhiệm vụ chính trị mới của Việt Nam, một Đảng lãnh đạo đồng thời hai nhiệm vụ chính trị ở hai miền khác nhau. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III chỉ rõ: “Miền Bắc là căn cứ địa chung của cả nước, sự lớn mạnh không ngừng của miền Bắc không những nâng cao lòng tin tưởng và cổ vũ tinh thần hăng hái cách mạng của đồng bào yêu nước miền Nam, mà còn làm cho lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng trên phạm vi cả nước ta càng nghiêng về phía cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ và giành thắng lợi cuối cùng...”.
Trong bối cảnh đó, thực hiện chủ trương của Đảng, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã lãnh đạo nhân dân nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, tiếp tục hoàn thành cách mạng dân chủ, đem lại ruộng đất cho nông dân từ năm 1954-1958.
Tỉnh ủy đã chỉ đạo các ngành, địa phương đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thống nhất hành động, kết hợp với đấu tranh chống địch phá hoại. Tỉnh vận động nhân dân đoàn kết giúp đỡ nhau cứu đói, chống hạn, khai hoang, phục hóa ruộng trồng rau màu, làm thủy lợi, tu sửa đê kè phòng chống bão lụt. Các chiến dịch làm thủy lợi với khí thế rầm rộ "nghiêng đồng đổ nước ra sông", "vắt đất ra nước, thay trời làm mưa" diễn ra khắp tỉnh. Hải Dương cũng tiếp nhận và tạo điều kiện để 5.000 đồng bào, cán bộ, chiến sĩ và 200 học sinh miền Nam tập kết về địa phương.
Cùng với ổn định chỗ ở và cứu đói cho dân, Tỉnh ủy tiếp tục thực hiện chủ trương phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, công - thương nghiệp, giao thông, vận tải, xây dựng nền tài chính để từng bước ổn định vật giá, tiền tệ, cân đối thu chi.
Sau cải cách ruộng đất, tỉnh tập trung phục hồi kinh tế. Tỉnh ủy ra nghị quyết đẩy mạnh phong trào đổi công trong nông thôn. Tỉnh chủ trương giữ vững, phục hồi các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, giúp đỡ đúng mức để các cơ sở có đủ điều kiện sản xuất bảo đảm kế hoạch, giảm bớt việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, giải quyết một phần nạn thất nghiệp; khuyến khích nghề phụ gia đình ở nông thôn, nhất là những nghề có nguyên liệu sẵn trong nước.
Thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, Đảng bộ tỉnh xác định và triển khai phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp một cách nhanh chóng, toàn diện, lấy sản xuất lương thực làm trung tâm, đồng thời coi trọng sản xuất cây công nghiệp và chăn nuôi. Cùng với cải tạo xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thương nghiệp, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân làm ăn tập thể, xây dựng quan hệ sản xuất mới dựa trên 2 hình thức sở hữu toàn dân và tập thể; thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, góp phần xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa thành hậu phương lớn của cách mạng miền Nam giai đoạn 1961-1965.
Tháng 12/1965, đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến lược Chiến tranh cục bộ, đưa số lượng lớn quân Mỹ và các nước đồng minh vào miền Nam, tăng cường đánh phá miền Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 12 (12/1965), tiếp tục đề ra nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước cho cả hai miền. Đối với miền Bắc, Hội nghị đề ra 6 nhiệm vụ lớn, trong đó đặc biệt chú ý: “Bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời chuẩn bị đánh thắng địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. Động viên sức người, sức của tăng cường chi viện miền Nam. Ra sức xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng…”[1].
Tại Hải Dương, thực hiện sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác chuyển hướng hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, ngày 12/3/1965, Tỉnh ủy Hải Dương họp, đề ra chủ trương tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chỉ đạo của Ủy ban hành chính các cấp, chỉ đạo các phòng, ban, cơ sở một cách cụ thể, phù hợp với điều kiện và nhiệm vụ của địa phương. Tỉnh ủy nhận định: sớm hoặc muộn, không quân Mỹ sẽ đánh.
Thực tế, từ cuối năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, liên tiếp dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc, Hải Dương là một trong những địa bàn bị giặc Mỹ bắn phá ác liệt nhất bởi nằm ở vị trí quan trọng, có 2 cây cầu lớn trên đường 5A và có đường sắt chạy qua. Quân và dân Hải Dương đã phát huy cao độ chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mạnh của nhân dân để giành thắng lợi. Với tinh thần "nhằm thẳng quân thù mà bắn", trong 7 trận chiến đấu đầu tiên vào tháng 11 và 12.1965, quân dân Hải Dương đã bắn tan xác 13 máy bay phản lực của Mỹ, trong đó bắn rơi tại chỗ 5 chiếc, bắt sống 3 giặc lái. Năm 1966, tổng số lực lượng dân quân của tỉnh là 7.282 người1. Toàn tỉnh có 14 đại đội, 1.807 trung đội, có 247 tổ trinh sát, 240 tổ công binh, 245 tổ hóa học, 242 tổ quân khí, 6 trung đội cầu phà, 32 trung đội đảm bảo giao thông. Ngoài ra, tỉnh đội còn tổ chức được 3.088 người từ 15 đến 25 tuổi và 2.680 người từ 26 đến 30 tuổi thuộc lực lượng dự nhiệm[2]. Lực lượng tự vệ ở các nhà máy, xí nghiệp như: Nhà máy sứ, Nhà máy đá mài, mỏ đá Thống Nhất, Nhà máy bơm Hải Dương, Nhà máy xay Ninh Giang đều được trang bị súng, chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng đánh trả không quân địch. Nhiều tấm gương dũng cảm trong chiến đấu đã xuất hiện như quân dân các xã, nay là các phường Nam Đồng, Ái Quốc, Ngọc Châu (TP Hải Dương), xã Lai Vu (Kim Thành) với hình ảnh cô du kích đã được nhà thơ Tố Hữu ca ngợi:
"Chuyện cô du kích xóm Lai Vu
Rắn quấn bên chân vẫn bắn thù".
Ngày 05/10/1967, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 168-NQ/TW về việc hợp nhất hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Ngày 26/01/1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Quyết định số 504-QĐ/TVQH về việc hợp nhất tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Từ tháng 1.1968, tỉnh Hải Dương và Hưng Yên hợp nhất thành tỉnh Hải Hưng. Cuối năm 1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Năm 1969, miền Bắc chuyển các hoạt động kinh tế từ có chiến tranh sang hòa bình. Từ ngày 27 đến ngày 30/01/1970, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp đề ra nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế miền Bắc trong những năm 1969 - 1972.
Từ năm 1969 đến năm 1972, cũng như nhân dân miền Bắc, nhân dân Hải Dương đã bắt tay vào sản xuất, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, chuẩn bị các kế hoạch để đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ. Đảng bộ tỉnh Hải Hưng tiếp tục lãnh đạo quân và dân Hải Hưng vượt qua gian khổ, hy sinh, làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn với tiền tuyến lớn. Với khẩu hiệu "vừa sản xuất, vừa chiến đấu", "bất kể tình huống nào cũng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường củng cố quan hệ sản xuất, kết hợp nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng", trên đồng ruộng, công trường, trong các nhà máy, xí nghiệp, người dân Hải Dương "tay cày, tay súng", "tay búa, tay súng", vượt lên bom đạn của kẻ thù và sự khắc nghiệt của thiên tai, lao động quên mình để làm nên những "cánh đồng 5 tấn thắng Mỹ".
Nhiều phong trào cách mạng thời kỳ này đã đi vào lịch sử như "Ba sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người...". Nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm bắn máy bay Mỹ như ở cụm chiến đấu cầu Phú Lương - Lai Vu, thị trấn Ninh Giang, tiểu đoàn 75, tiểu đoàn 58, bộ đội cao xạ Hải Dương, dân quân các huyện Cẩm Giàng, Kim Thành...
Suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, con em Hải Dương đã lên đường vào Nam chiến đấu. Quân và dân Hải Dương đã chiến đấu ngoan cường suốt 2 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và chiến thắng vẻ vang. Đã phối hợp cùng bộ đội chủ lực tham gia chiến đấu 2.630 trận, bắn rơi 83 máy bay Mỹ, trong đó bộ đội địa phương bắn rơi 13 chiếc, tháo gỡ an toàn hàng nghìn quả bom nổ chậm và thủy lôi của địch, bắt sống hàng chục giặc lái, bảo vệ vùng trời, giữ vững tuyến giao thông huyết mạch 5A và đường sắt, góp phần tích cực đập tan cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân Mỹ, cùng cả nước đi tới Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cùng với chú trọng phát triển kinh tế, Đảng bộ tỉnh luôn chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân; củng cố tổ chức đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng bộ luôn lấy tinh thần tự phê bình và phê bình và tinh thần đoàn kết thống nhất trong Đảng đặt lên hàng đầu.
84 năm qua, kể từ ngày đầu thành lập đến nay, với 17 kỳ Đại hội, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã không ngừng phát triển, trưởng thành. Từ 3 ủy viên Ban Tỉnh ủy lâm thời với 14 đảng viên và phát triển thành 50 đảng viên (thời kỳ Cách mạng Tháng Tám năm 1945) đến nay Đảng bộ tỉnh Hải Dương có 15 đảng bộ cấp trên cơ sở trực thuộc Tỉnh ủy; có 640 tổ chức cơ sở đảng với trên 109.000 đảng viên.
Đứng trước những tác động từ tình hình thế giới trong nước và trong tỉnh, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo lãnh đạo tỉnh Hải Dương trên tất cả các lĩnh vực.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, quê hương Hải Dương ngày càng phát triển, đạt được những thành tựu đáng tự hào. Đến nay, kinh tế Hải Dương liên tục có những bước tăng trưởng khá. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Quy mô nền kinh tế ngày càng lớn, tỉnh hiện đứng thứ 11/63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Từ năm 2017, Hải Dương đã tự cân đối được ngân sách. Tỉnh cũng là một trong 5 tỉnh đầu tiên trong cả nước hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) giai đoạn 2021-2023 tăng bình quân 8,58%/năm. Dự báo 6 tháng năm 2024 tăng trưởng kinh tế của Hải Dương ước đạt 10%. Trong đó tăng trưởng quý I đạt 10,11%, quý II ước đạt 9,91%. Với kết quả này, tăng trưởng kinh tế của tỉnh đứng thứ 7 cả nước, đứng thứ 3 vùng đồng bằng sông Hồng.
Bên cạnh đó, đối với công tác xây dựng Đảng, những năm qua, nhất là từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Hải Dương có nhiều biện pháp quyết liệt, cụ thể để vượt khó phát triển tổ chức đảng và đảng viên. Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao rõ chỉ tiêu hằng năm cho các Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy. Các đơn vị đều chủ động xây dựng kế hoạch và đề ra các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để thực hiện công tác phát triển đảng viên hằng năm và trong cả nhiệm kỳ. Công tác phát triển tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước, kết nạp đảng viên là học sinh và ở khu vực nông thôn được quan tâm thực hiện. Chỉ tính riêng trong năm 2023, toàn tỉnh phát triển được 12 tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân; kết nạp được 2.290 đảng viên, vượt 4% chỉ tiêu theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII.
Cùng với phát triển Đảng, Hải Dương đặc biệt chú trọng công tác chỉnh đốn, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Những năm qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo cụ thể hóa kịp thời các kết luận của Trung ương, trọng tâm là thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Các tập thể, cá nhân vi phạm đều bị xử lý, kỷ luật nghiêm minh, đúng quy định.
Truyền thống vẻ vang và những kết quả đạt được là tiền đề, động lực to lớn để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hải Dương tiếp tục phát huy ý chí, khát vọng, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, quyết tâm phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã đề ra; xây dựng quê hương phát triển bền vững.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ sự trưởng thành, phát triển của Đảng bộ tỉnh Hải Dương qua quá trình lãnh đạo quê hương, đất nước. trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước, Đảng bộ tỉnh Hải Đương đã hoàn thành vaii trò là hậu phương vững chắc của miền Nam, góp phần làm nên thắng lợi cuộc chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975). Cùng với nhiệm vụ chung của cả nước, Đảng bộ tỉnh Hải Dương tiếp tục phát huy năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu xây dựng Hải Dương trở thành tỉnh giầu mạnh, văn minh, phát huy những truyền thống tốt đẹp của Hải Dương-Thành Đông./.
Ths Thân Thị Cương, giảng viên khoa Xây dựng đảng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2006, t.26.
2. Phương hướng, nhiệm vụ và báo cáo của Ủy ban hành chính tỉnh Hải Dương về tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1966, Đvbq số 58, hộp số 7, lưu tại Phòng Lưu trữ, Tỉnh ủy Hải Dương.
3. Đại tướng Văn Tiến Dũng – Đi theo con đường của Bác, Hồi ký, Nxb CTQG, H. 1990
4. Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 47, Nxb CTQG, H. 2006.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQGST, H. 2016.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQGST, H. 2016.
CHÚ THÍCH
[1] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.644-649 [2] Xem Phương hướng, nhiệm vụ và báo cáo của Ủy ban hành chính tỉnh Hải Dương về tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1966, Đvbq số 58, hộp số 7, lưu tại Phòng Lưu trữ, Tỉnh ủy Hải Dương.